Chuyện cân, đong, đo, đếm và nét văn hóa chợ ĐBSCL

19/10/2025 - 08:56

Do đâu đâu cũng “cây nhà lá vườn”, cũng “trên cơm dưới cá”, nên nói chung trong việc mua bán, cân, đong, đo, đếm, từ xưa người miền Tây đã có quy ước hào phóng, có lợi cho người mua.

Cư dân ĐBSCL khi tính theo đơn vị cũng dùng cách phổ biến là kê bằng “cái/chiếc”. Bên cạnh đó có một số vật/loại đặc thù: thuốc bắc thì kể “thang” (gói bằng giấy nhựt trình, vuông vức), thuốc hút thì kể “lang”, “bánh”. Giấy vấn thuốc tính tờ; bán lẻ thì rọc ra, bề ngang vừa bằng chiều dài của điếu thuốc, rồi quấn tròn lại gọi “dun giấy”…

Hầu hết các vật loại khác đều được tính dưới dạng cân, đong, đo, đếm với những đặc trưng văn hóa riêng gắn liền đời sống lao động sản xuất và điều kiện tự nhiên nơi đây.

Về cân

Đối với các loại hàng hóa thông thường, tùy số lượng nhiều hay ít mà người ĐBSCL xưa tính khía (50g), cân (12 khía), ký (1.000g), yến (6kg), tạ (60kg), tấn (1.000kg). Thí dụ than đốt lò (tùy than đước hay than tạp) thì cân tính tạ.

Còn đồ nữ trang vàng, bạc, đồng… thì dùng cân tiểu ly, kể từ ít đến nhiều: ly, phân, chỉ, lượng. Có thể lấy câu nói “Một bên nửa cân một bên 8 lượng/lạng” để dùng làm đơn vị quy đổi - bằng nhau.

Phụ nữ miền Tây dùng cân đồng hồ để cân đồ. Ảnh: DUY KHÔI

Người đồng bằng khi bán heo nguyên con dùng cân đòn; bán lẻ ở chợ dùng cân giá, tùy từng loại thịt (loại mỡ, xương sườn, xương đùi…) mà có giá khác nhau.

Về đong

Với lúa gạo thì người miền Tây tính giạ, đong bằng táo, gạt bằng (1 táo bằng 20 lít; 2 táo bằng 1 giạ). Sau này do thị trường có bán những thùng dầu lửa hình vuông, làm bằng thiếc, dung tích 20 lít nên khi đong chất lỏng, thay vì gọi “táo”, dân gian gọi “thùng”. Bán lẻ đong bằng lít (nay thì dùng cân, tính ký).

Các nông sản như khoai, ấu... thì tính giạ, đong bằng táo, vun ngọn. Còn với đặc sản như hến luộc rồi (toàn thịt) được lường bằng chén nhỏ. Ốc lớn (ốc bươu, ốc lác) thì bán mớ (nay thì cân ký).

Một số dụng cụ dùng để đong. Ảnh: DUY KHÔI

Tro bếp còn được cư dân ĐBSCL dùng như phân bón. Với tro đốt bằng củi thì đong bằng táo lớn (40 lít) vun ngọn. Trấu và tro trấu đong lường bằng bao (loại bao đươn bằng cọng bàng gọi bao cà ròn, hoặc dệt bằng dây đay/bố gọi bao bố tời), cần xé (đươn bằng tre hoặc trúc, dung tích vài ba giạ, trên có hai quai để dễ nắm khi vác, hoặc xỏ cây đòn mà khiêng).

Người miền Tây khi bán cá tươi cho “lái rổi” tại đìa, đong bằng “giỏ bảy” làm bằng tre cật rất cứng chắc; 1 giỏ bảy bằng 7 “sàng” tức giỏ nhỏ, 1 giỏ nhỏ đựng được khoảng trên dưới 40 ký cá. Tại vựa hoặc bán lẻ ở chợ đều dùng cân, thường cân “giác” có lợi cho người mua. 

Nước sinh hoạt thì tính đôi. 1 đôi nước là 2 thùng, mỗi thùng không quá 20 lít. Tùy đường xa hay gần mà người cần thỏa thuận giá với người gánh nước mướn. Nếu cung cấp cho người tiêu dùng bằng ghe/xe thì gọi “đổi nước” chứ không ai nói “bán nước”.

Về đo

Khi mua bán ván, người bán luôn đo dư và không tính những nơi bị lẹm, giác, bìa chéo... Còn với cây gỗ thì tùy loại cây lớn hay nhỏ mà thỏa thuận về giá, kiểu bán mão từng cây hoặc nguyên một bụi, một vườn cây hoặc người mua tự đốn chặt. Nếu cây gỗ cưa xẻ thì đo tính theo đơn vị tính là “cây đòn tay” rồi quy ra mét, khối trên cơ sở “cây ván hộp”. Khi đo không tính bìa, chéo, và những nơi bị “lẹm”…

Đo đất theo cách tính truyền thống ở nông thôn ĐBSCL ngày trước thì đo vuông mỗi cạnh 10 tầm thì gọi công mười, mỗi cạnh 12 tầm thì gọi công tầm cắt. Đo tới đâu thì cắm cây làm bông tiêu để giới hạn. Người xưa nếu đo ruộng lúa sạ giao cho người cắt lúa mướn thì đo 12 tầm rồi kéo một nắm gốc rạ lên khoảng 40-50cm, ngoai quấn vài vòng bằng chính những sợi rạ ấy để cố định và giới hạn. Lý do chủ đất và người gặt lúa mướn thỏa thuận “công 12” thường vì ruộng này lúa mọc loang lổ, chỗ có chỗ không, nên gọi “công tầm cắt”.

Với cát, đá xây dựng thì tính khối. Còn củi chụm được cắt thành khúc khoảng 3 tấc, chất thành cự, đo tính mét vuông.

Vải thì đo mét tới, giá cả tùy khổ vải rộng hay hẹp (xưa do dệt thủ công nên khổ hẹp, thường là 8 tấc = 80cm) gọi “vải tám”. Còn lãnh thì tính xấp, mỗi xấp kể “một quần” - dù may áo cũng tính “quần”, do đó muốn may 1 bộ đồ thì phải mua 2 “quần”. 

Về đếm tính

Với lá trầu thì 20 lá kể một chục, buộc lại thành một “ốp”; 12 ốp như vậy kể một trăm, mười trăm là một thiên (1.000 đủ đầu), mười thiên là một muôn (10.000 đủ đầu). “Đủ đầu” là có cho thêm một số nhất định, thí dụ một chục đủ đầu thì không phải là 10 tức “một chục trơn” mà là 12, 14, 16…; một trăm, một thiên, một muôn đủ đầu cũng tính trên cơ sở ấy, có lợi cho người mua.

Bông điên điển, đọt bầu, đọt bí… nói chung là rau đồng, rau rừng thì bán mớ. Bông súng đồng bán lọn: 4, 5 cọng khoanh quấn lại kể một lọn; tùy cọng dài hay ngắn mà bán giá khác nhau. Nếu bông súng trồng cọng lớn bằng ngón tay, gọi bông súng Đà Lạt, thì bán từng cọng/bông.

Dưa hấu hồi xưa bán tại đám theo cách cả người trồng và lái mua đều tính ngầm bằng xe trâu, 1 xe khoảng 20 giạ lúa - tính “xa cạ” từ dưa lớn nhất gọi dưa cặp, rồi dưa nhứt, dưa nhì, dưa ba; nhỏ hơn thuộc dưa vụn, “dưa canh” (tức dưa nhỏ, méo, lép chỉ dùng nấu canh) thì không kể. Tùy độ lớn bình quân và chất lượng của trái dưa mà thỏa thuận giá. Nay thì bán tại đám đếm trái; ra đến chợ thì cân.

Còn dưa leo tại đám được bán mão hoặc tính giỏ; dưa gang chín (bán lẻ) thì tính trái. Khổ qua, cà các loại thì cân.

Trâu, bò thì bán mão tùy con theo phương thức thuận mua vừa bán. Gà, vịt ngày trước thường được bán mão - nhứt là “vịt hãng” (vịt nuôi đàn, cả ngàn con). Trứng gà, vịt khi bán theo cách đếm trứng thì tính “chục trơn” tức mười trứng. Trứng vịt xiêm cao giá hơn trứng vịt ta, vì hiếm; trứng “vịt hãng” thấp giá nhứt, vì nhỏ nhiều và không có trống.

Hàng thủ công như đồ mộc, đồ rèn, đươn đát thì tùy nguyên liệu và kiểu dáng mà có giá riêng từng món. Do cồng kềnh hoặc nặng nề, vận chuyển khó khăn nên giá bán lẻ cao gấp 2, 3 lần giá tại trại, lò, cơ sở sản xuất.

Lá lợp nhà đã chằm, lá dừng vách (tàu lá dừa nước đã rọc chẻ ra làm hai) thì tính thiên đủ đầu. Ngói lợp, gạch xây dựng được đếm tính theo thiên, muôn và có bù thêm một ít (vì trong vận chuyển thế nào cũng có mẻ, bể). Lưỡi câu cũng được tính thiên, muôn, tùy loại.

Đối với những món thuộc “cây nhà lá vườn”, cả người bán và người mua đều không cần cân, đong, đo, đếm, mà chỉ nhắm chừng, gọi “mua nhắm bán mớ” (như rau cải), hoặc ngầm đoán tính rồi trao đổi thỏa thuận (như các loại trái còn trên cây: dừa, xoài, cam, quýt…).

Cách tính các hình thức dịch vụ phổ biến ngày trước

Khi thuê mướn làm đất có dùng trâu bò cày, bừa… thì tính “tát” (1 là một lần cày, hoặc bừa), mấy công tính tiền mấy công theo giá thỏa thuận. Chủ đất lo cơm ngày hai bữa cho chủ trâu bò. Khi đào mương, vít hầm, gánh đất đổ nền nhà thì tính “khối dưới” (đất chưa đào, còn dẽ dặt, không bộp xộp).

Làm cỏ mướn thì tính ngày, ăn công nhựt. Chủ đất phải cùng làm với người làm mướn để “dẫn lối”, tức người chủ làm nhanh thì người làm mướn làm nhanh theo và ngược lại. Nếu chủ không trực tiếp làm thì ủy nhiệm một người nào đó làm giỏi, thay mặt mình.

Cắt lúa mướn tính theo “công” (12 tầm vuông), tùy lúa trúng hay thất, chủ lúa trả cho người cắt mướn bằng lúa hột, thường là 1 giạ/công. Nếu lúa quá trúng thì 1 giạ rưỡi/công, thất thì 0,5 giạ/công. Hoặc khi dùng cây tầm để đo thì chủ có nhích thêm một ít.

Mướn đất trồng lúa (lúa mùa, 1 vụ/năm) thì tính trên số công đất. Người mướn trả cho chủ đất bằng lúa, có thể quy ra tiền theo sự thỏa thuận trước, hoặc trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm thu hoạch. Thời gian tùy thỏa thuận, thường là từng năm. Thuế đất do chủ đất đóng cho nhà nước, rồi thu lại người mướn, gọi “thu tô”. Sau khi gặt lúa, người mướn đất có quyền trực tiếp trồng hoặc cho người khác trồng thêm một mùa rẫy, nhưng khi trả đất phải dọn đất cho sạch sẽ (đốt sạch gốc rạ).

Nếu làm mướn theo ngày gọi ăn công nhựt. Bất cứ làm việc gì chủ phải nuôi cơm, ngày 3 bữa, ngoài ra cũng phải có bánh trà, hoặc cà phê tùy điều kiện gia chủ. Nếu làm ăn sản phẩm thì giá thỏa thuận trên từng sản phẩm hoặc từng khâu, tùy giao kết.

Thợ hồ, thợ mộc, thợ bạc… thì làm ăn công, tính theo món. Đối với thợ bạc thì ngoài ăn tiền công họ còn ăn “phân hao”, tức món đồ 1 chỉ vàng thì tính thêm 1 phân hao (sự thật nếu là thợ giỏi họ làm món đồ 1 chỉ thì chỉ hao một vài ly). 

Vần công là tình làng nghĩa xóm giúp nhau khi có việc (thí dụ lợp nhà, cấy lúa…), thường thì không lấy tiền công nhưng chủ phải chu đáo việc cơm nước. Nếu công việc quá nặng nhọc hoặc kéo dài thời gian thì chủ nhà phải nghĩ đến việc trả thù lao hoặc đền ơn sao cho tương xứng.

Mấy nét văn hóa bán buôn ngày trước

Trong tinh thần tương thân tương ái, đối với người quá nghèo không sẵn tiền, người bán sẵn lòng cho thiếu, gọi “bán chịu”, chấp nhận vài tháng mới trả; có khi “bán chịu tới mùa”, cứ để đó cho đến khi thu hoạch lúa/rẫy mới tính sổ mà không tính thêm tiền lãi.

Tuy nhiên, đối với những tiệm tạp hóa trong xóm, chủ tiệm cũng là người nghèo, nếu bán chịu, người mua chậm trả, sẽ bị “cụt vốn”, nên buộc phải lấy phấn viết mấy chữ lên vách: “Ít vốn, không bán chịu, bà con thông cảm!”.

Bán hàng ở chợ, bà con rất kỵ chuyện “mua giành bán giựt”, nên nếu có trường hợp ấy xảy ra, bà con liền khuyên nhắc “Trăm người bán vạn người mua”.

Một nét văn hóa nữa không thể không ghi nhận là khi “đóng gói” hàng giao cho khách, người bán không bao giờ cột dây gút mối mà luôn luôn chừa sẵn mối giựt để khách tháo mở dễ dàng.

Tất cả những gì vừa nêu có những mặt rất tỉ mỉ nhưng xét ra rất phóng khoáng, góp phần hình thành nét đặc sắc chợ ở ĐBSCL.

Theo Baocantho.com.vn