Nông dân huyện Vĩnh Lợi sử dụng phân vi sinh phun xịt cho cây lúa.
ĐẤT BỊ “SUY THOÁI”
Thực tiễn đã chứng minh, đất và nước đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp. Thế nhưng, với việc thâm canh tăng vụ và chưa làm tốt công tác quản lý về tài nguyên, quy hoạch và đầu tư phát triển hạ tầng phục vụ cho sản xuất, cùng với quá trình biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp đã tạo ra những áp lực “đè nặng” lên môi trường và “sức khỏe” của 2 nguồn tài nguyên quan trọng này.
Giống như cơ thể sống, cây trồng muốn phát triển “khỏe mạnh” phải được sản xuất ở vùng đất giàu dưỡng chất cần thiết. Song, sau nhiều năm thâm canh trong sản xuất, “sức khỏe” đất trồng ở vùng ĐBSCL đã và đang suy kiệt dần. Theo GS. Bùi Chí Bửu - nguyên Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, một trong những chuyên gia ngành Nông nghiệp hàng đầu của Việt Nam, cho biết: “Đến thời điểm hiện nay, có khoảng 44% diện tích đất nông nghiệp ở trạng thái “thoái hóa”, tức bị thay đổi những đặc tính và tính chất vốn có ban đầu (theo hướng xấu đi), trong đó, ĐBSCL có khoảng 392.000ha”.
Phân tích chi tiết hơn có thể thấy, các thành phần dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng có trong đất đã suy giảm đáng kể ở thời điểm hiện nay so với năm 1975. Trong đó, tổng lượng can-xi, ma-giê trong đất đã giảm khoảng 3 - 4 lần. Đặc biệt, tại Hội thảo quốc gia đất và phân bón diễn ra trong năm nay tại TP. Cần Thơ, PGS-TS Châu Minh Khôi - Phó Hiệu trưởng Trường Nông nghiệp (Đại học Cần Thơ), qua đề tài nghiên cứu về “Giải pháp quản lý đất cải tiến giúp cải thiện độ phì nhiêu đất và năng suất lúa” cũng đánh giá, chất lượng đất ở ĐBSCL đang “suy thoái”. Theo đó, độ pH của đất hiện chỉ còn dao động quanh 4.5 - 5 so với mức khoảng 6.1 của năm 1975. Còn với hàm lượng chất hữu cơ có trong đất lúa, dù suy giảm ít, nhưng chất lượng chất hữu cơ lại suy giảm, từ khoảng 22 - 23mg xuống còn khoảng 18mg.
Theo PGS-TS Châu Minh Khôi: “pH trong đất có ảnh hưởng khá lớn đến độ hữu dụng, tức khả năng cung cấp dinh dưỡng dễ tiêu trong đất (đạm, lân dễ tiêu) để cây trồng hấp thu, phát triển. Nếu chỉ số pH trong khoảng 5 cho thấy khả năng cung cấp dưỡng chất rất kém”.
Từ thực trạng trên cho thấy, khả năng cung cấp dưỡng chất cho cây trồng đối với đất trồng ở khu vực ĐBSCL đang rất kém, vì chỉ số pH trong đất ở nhiều khu vực đã giảm xuống mức chỉ 4.5 - 5.
Riêng lượng phù sa vốn được xem là một thành phần dinh dưỡng được bổ sung vào đất để cung cấp cho cây trồng và vùng sản xuất lúa trọng điểm của cả nước là ĐBSCL hiện cũng đã giảm khoảng 40% so với mức hơn 40 triệu tấn/năm của những năm 1998 - 1999. Đáng quan tâm hơn cả chính là trong điều kiện môi trường bị suy thoái, thì vấn nạn lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật lại diễn ra phổ biến, nhằm giúp cây trồng duy trì năng suất, sản lượng. Song, điều này khiến sâu, bệnh hại trên cây trồng phát triển rất nhanh và nhiều nơi đã kháng thuốc, kéo theo việc sử dụng hóa chất gây ô nhiễm môi trường đất, nước ngày càng nghiêm trọng hơn.
Theo nghiên cứu của GS. Bùi Chí Bửu: “Với 10 triệu héc-ta đất nông nghiệp cả nước, mỗi năm sử dụng khoảng 11 triệu tấn phân bón, tức bình quân 1,1 tấn/ha/năm. Trong đó, riêng khu vực ĐBSCL sử dụng 0,4 tấn/ha/vụ, tức 1,2 tấn/ha/năm (3 vụ mỗi năm), cao hơn bình quân cả nước”. Con số này là rất lớn, vì ở một số nước như: Hà Lan, Nhật Bản chỉ sử dụng 0,4 - 0,6 tấn/ha/năm. Điều đáng trăn trở là dù phải đánh đổi “sức khỏe” của đất không hề nhỏ, nhưng lợi nhuận mang lại cho nông dân sản xuất lúa (3 vụ/năm) ở ĐBSCL vẫn khá thấp, chỉ khoảng 40 - 60 triệu đồng/ha.
Mô hình lúa - màu giúp cải tạo và tăng cường dinh dưỡng cho đất. Ảnh: K.T
HÃY BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
So với các địa phương khác, Bạc Liêu được xem là nơi có diện tích sản xuất lúa khá lớn, trong đó có những địa phương chuyên về cây lúa như huyện Vĩnh Lợi. Thời gian qua, Bạc Liêu cũng đã triển khai nhiều mô hình sản xuất theo hướng tăng trưởng xanh trên cây lúa như: Chương trình “3 giảm - 3 tăng”, “1 phải - 5 giảm”, sản xuất lúa theo tiêu chuẩn quốc tế về sản xuất lúa gạo bền vững - SRP (Sustainable Rice Platform), thực hiện mô hình sản xuất lúa an toàn hướng đến sản xuất lúa hữu cơ và xây dựng mô hình sản xuất lúa an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP... Tuy nhiên, diện tích áp dụng các mô hình sản xuất thân thiện với môi trường này còn khá khiêm tốn so với tổng diện tích canh tác lúa hơn 107.640ha. Do vậy, việc tiếp tục khuyến khích và nhân rộng các mô hình sản xuất lúa sạch gắn với tăng cường công tác bảo vệ môi trường chính là giải pháp cần ưu tiên hàng đầu hiện nay.
Về lâu dài, cần tăng cường các giải pháp quản lý phù sa. Vì theo GS. Bùi Chí Bửu: ĐBSCL là vùng đất ngập nước nên liên quan đến “nước và phù sa”. Do đó, vấn đề của ĐBSCL là quản lý phù sa, dù đã giảm 40%. “Chúng ta phải dùng phù sa vì đây là giải pháp rẻ tiền nhất để cải tạo đất”, GS. Bửu gợi ý. Đối với vấn đề “quản lý nước”, đất bị ngập nước liên tục khiến chất hữu cơ ở trạng thái “kiềm giữ” dinh dưỡng NPK (đạm, lân, kali), không nhả ra cho cây trồng dùng. Phải làm sao không cho ngập nước, tức có một vụ để đất khô như sản xuất 2 vụ lúa - 1 vụ màu hoặc giữa 2 vụ phải có thời gian phơi đất ít nhất 3 tuần mới có hiệu quả cải tạo đất. GS. Bùi Chí Bửu cho biết và dẫn chứng, với những ruộng lên liếp trồng màu, thì khi quay trở lại sản xuất lúa, cây rất xanh tốt.
Đồng quan điểm này, PGS-TS Châu Minh Khôi cho rằng, ở khía cạnh quản lý đất, việc tạo thời gian nghỉ là rất quan trọng, vì đây là điều kiện để đất phục hồi. Chẳng hạn, canh tác 3 vụ trong 3 năm, thì nên có một vụ để đất trống hoặc tạo điều kiện cho lũ vào cũng tạo “cơ hội” cho đất phục hồi. Còn với những vùng thuận lợi, có thể luân canh lúa - cây màu, nhất là những loại cây họ đậu để có thể tận dụng thân cây làm phân hữu cơ. Đây là giải pháp cải thiện chất lượng đất, tăng hoạt động cho đất và tăng cường khoáng hóa dinh dưỡng trong đất.
Ngoài ra, việc bón phân hữu cơ hay luân canh lúa - màu cũng là giải pháp để nâng độ pH trong đất, hay nói cách khác là tạo điều kiện cho cây trồng dễ dàng hấp thu nguồn dinh dưỡng dễ tiêu trong đất. Bởi lẽ, chỉ số pH thấp như đang diễn ra ở ĐBSCL chính là nguyên nhân làm hạn chế khả năng hấp thu dinh dưỡng của cây trồng.
Theo SONG TRUNG (Báo Bạc Liêu)