Chuyển biến ngành nông nghiệp

23/09/2018 - 09:26

Xuất phát điểm từ nền nông nghiệp còn nhiều khó khăn, thế nhưng qua gần 15 năm từ khi thành lập, tình hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh có bước chuyển mình mạnh mẽ.

Cơ giới hóa trong thu hoạch lúa đang đáp ứng hơn 80% nhu cầu của nông dân trên địa bàn tỉnh.

Theo nhận định của lãnh đạo ngành nông nghiệp tỉnh, khi mới chia tách từ tỉnh Cần Thơ vào năm 2004, Hậu Giang được xem là tỉnh thuộc địa bàn vùng sâu và trong những năm đầu nền kinh tế - xã hội phát triển đi lên theo cơ cấu kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - thương mại, dịch vụ, trong đó tỉnh rất chú trọng đến lĩnh vực có thế mạnh là nông nghiệp. Thế nhưng, do xuất phát điểm thấp, hạ tầng còn nhiều yếu kém, đời sống Nhân dân ở khu vực nông thôn còn nhiều khó khăn. Chính vì vậy, với mong muốn sớm đưa khu vực nông nghiệp, nông thôn của tỉnh vươn lên phát triển khá so với các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long nên từ khi thành lập tỉnh đến nay, thực hiện theo sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, ngành nông nghiệp tỉnh đã phấn đấu quyết liệt với nhiều giải pháp thiết thực và đến nay đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực của ngành.

Chọn giải pháp đột phá đúng hướng

Trong quá trình chỉ đạo điều hành, để giúp ngành chức năng các địa phương và người dân trong tỉnh có định hướng phát triển nông nghiệp phù hợp nên từng giai đoạn, ngành nông nghiệp tỉnh đã chọn và đề ra những định hướng đột phá lớn nhằm tập trung thực hiện có trọng tâm. Cụ thể, trong 5 năm đầu từ 2004-2009, nền nông nghiệp Hậu Giang tập trung quy hoạch xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa lớn trên cây lúa, mía, cây ăn trái, nuôi trồng thủy sản. Trong đó, nổi bật là mô hình cánh đồng lớn trong sản xuất lúa đã tạo ra mối liên kết “4 nhà” hiệu quả. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp tỉnh cũng nỗ lực xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu và đến nay đã có 10 mặt hàng nông sản chủ lực của tỉnh đã có chứng nhận nhãn hiệu hàng hóa, gồm: Bưởi Năm Roi Phú Thành Hậu Giang; cam sành Ngã Bảy; chanh không hạt Hậu Giang; lúa Hậu Giang 2; cá rô Hậu Giang; quýt đường Long Trị; cá thát lát Hậu Giang; khóm Cầu Đúc Hậu Giang; xoài cát Hậu Giang; cam xoàn Phụng Hiệp. Trong đó, 3 nông sản (cam sành, khóm và cá thát lát) đã phát triển thành thương hiệu được thị trường cả nước biết đến. Từ việc xây dựng thành công thương hiệu đã tạo điều kiện thuận lợi cho đầu ra sản phẩm, nâng cao giá trị kinh tế và giúp người dân an tâm sản xuất.

Ông Nguyễn Văn Chiến (Hai Chiến), Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã (HTX) nông nghiệp Thạnh Phước (ở xã Đông Thạnh, huyện Châu Thành), cho biết: Vào thời điểm đầu mới trồng chanh không hạt, thị trường đầu ra đôi lúc gặp khó khăn do người tiêu dùng chưa biết. Nhưng nhờ sự quan tâm của chính quyền địa phương trong việc xây dựng nhãn hiệu hàng hóa mà đầu ra sản phẩm của HTX hiện nay rất ổn định. Theo đó, hiện HTX có 17,2ha chanh không hạt được chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP, bảo đảm tiêu chuẩn an toàn để xuất khẩu và được Cục Sở hữu trí tuệ cấp chứng nhận thương hiệu “Chanh không hạt Hậu Giang”. Không chỉ làm theo tiêu chuẩn VietGAP, nhiều xã viên của HTX còn mạnh dạn áp dụng tiêu chuẩn toàn cầu là GlobalGAP (có 12 xã viên, diện tích 13ha) và được Công ty The Fruit - Republic (Hà Lan) cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn GlobalGAP và ký hợp đồng bao tiêu để xuất khẩu. Nhờ canh tác khoa học nên hiện sản phẩm chanh không hạt của HTX được tiêu thụ lâu dài ở hệ thống siêu thị Co.opMart, bán cho các công ty và xuất khẩu sang một số nước Trung Đông, châu Âu với giá dao động từ 10.000-30.000 đồng/kg tùy mùa. Từ trồng chanh không hạt, nhiều xã viên HTX đã thoát nghèo, vươn lên khá giàu.

Nối tiếp những thành công ban đầu, sang 5 năm tiếp theo (từ 2009-2014), nhằm từng bước khắc phục cơ sở hạ tầng yếu kém và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu để phục vụ sản xuất nông nghiệp, UBND tỉnh đã tập trung xây dựng hệ thống kè Xà No và nhiều công trình đê bao ngăn mặn. Đặc biệt, thông qua Chiến dịch giao thông nông thôn - thủy lợi hàng năm, tỉnh đã đầu tư cho việc phát triển hệ thống thủy lợi. Nhờ vậy, từ chỗ hạ tầng còn nhiều yếu kém ban đầu, đến nay toàn tỉnh hình thành 915 vùng thủy lợi khép kín với diện tích từ 30-100 ha/vùng. Cũng nhờ công tác thủy lợi nên hiện hầu hết diện tích sản xuất lúa, cây ăn trái, mía, khóm và trên 70% diện tích trồng rau màu đều được bơm tưới bằng máy.

Ông Lê Văn Việt, ở ấp 11, xã Vị Trung, huyện Vị Thủy, chia sẻ: “Ngày trước làm ruộng cực lắm chứ không khỏe như bây giờ, nhất là khâu bơm nước. Bởi mỗi khi xuống giống vụ lúa Thu đông hoặc Đông xuân thường phải ra ruộng canh máy bơm nước mấy đêm liền. Giờ có hệ thống đê bao, trạm bơm điện nên không còn cảnh này nữa và cũng an tâm hơn vì lúa không bị ngập nước làm thiệt hại”.

Ông Lê Văn Đời, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh, nhận định: Việc đầu tư các công trình thủy lợi được xem là yếu tố quan trọng và đã tạo ra nhiều bước đột phá cho ngành. Bởi, khi các công trình được xây dựng và củng cố đã góp phần hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, phục vụ tưới tiêu nâng cao năng suất, sản lượng cây trồng về nông, lâm nghiệp và thủy sản; đồng thời chống hạn, lũ, ngăn mặn phục vụ phát triển sản xuất và đời sống nông dân.

Cùng với phát triển cơ sở hạ tầng, sang 5 năm tiếp theo (2014-2019), ngành nông nghiệp tỉnh đã tập trung xây dựng và triển khai mạnh mẽ các chương trình, đề án, dự án phục vụ cho tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Nổi bật là Đề án cơ giới hóa trong sản xuất lúa, giai đoạn 2012-2015 nhằm tiết giảm chi phí, giảm giá thành, nâng cao lợi nhuận cho nông dân. Song song đó là Đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi (Đề án 1000) với nhiều chính sách hỗ trợ cho nông dân; Đề án về nâng cao chất lượng hoạt động của Hợp tác xã; Đề án công nghiệp hóa, điện khí hóa nông nghiệp, nông thôn; Đề án phát triển giống cây trồng, vật nuôi và thủy sản chất lượng cao; Đề án trạm bơm điện…

Ông Lê Văn Đời, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh, cho rằng: 15 năm qua, tuy chặng đường không dài nhưng khi nhìn lại thì ngành nông nghiệp tỉnh cũng cho thấy nhiều sự đổi thay mạnh mẽ trên các mặt. Để có được điều này chính là việc ngành đã chọn nhiều giải pháp đột phá đúng hướng, nhất là triển khai nhiều chương trình, đề án thiết thực đã góp phần tích cực trong việc giúp người dân chọn trồng hay nuôi con gì để phù hợp với định hướng tái cơ cấu của ngành nông nghiệp tỉnh theo từng vùng và từng giai đoạn. Qua đây, giúp ổn định đầu ra sản phẩm và nâng cao hiệu quả kinh tế cho từng mô hình, đưa đời sống người dân nông thôn ngày càng phát triển.

Nhiều mục tiêu lớn tiếp theo

Bên cạnh những chuyển biến tích cực thời gian qua, hiện ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục đề ra mục tiêu lớn là tập trung đẩy nhanh thực hiện tái cơ cấu ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững gắn với nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và xây dựng nông thôn mới. Trong đó, sẽ lấy Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao 5.200ha làm động lực gắn kết các viện, trường, các nhà khoa học, các doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao để đưa hàm lượng khoa học kỹ thuật vào các vùng sản xuất chính của tỉnh. Ngoài ra, sẽ tham gia xây dựng mô hình 4.0 trong những lĩnh vực về trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp để nghiên cứu, chuyển giao và sản xuất với mục tiêu đạt năng suất cao hơn, bảo vệ môi trường tốt hơn.

Cùng với mục tiêu trên, việc hỗ trợ liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân được xem là nhiệm vụ đóng vai trò thiết yếu trong liên kết sản xuất, tiêu thụ hàng nông sản và đây thật sự là xu thế phát triển tất yếu của nền nông nghiệp hiện đại. Do đó, tới đây ngành nông nghiệp tỉnh và chính quyền địa phương sẽ đóng vai trò cầu nối quan trọng trong mối liên kết 4 nhà, nhất là mối liên kết giữa nhà nông và doanh nghiệp. Ông Lê Văn Đời, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh, thông tin: Tới đây, ngành tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách trong tái cơ cấu nông nghiệp như chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển chăn nuôi nông hộ, phát triển thủy sản… Đồng thời, tăng cường công tác cập nhật, theo dõi thông tin thị trường để từ đó có giải pháp, biện pháp thúc đẩy phát triển sản xuất, cũng như sớm giải quyết các khó khăn, vướng mắc về chất lượng sản phẩm, quy trình kỹ thuật, cân đối cung cầu… Nếu triển khai tốt các giải pháp trên thì tin rằng mục tiêu mà ngành nông nghiệp đề ra là phấn đấu đưa khu vực nông nghiệp, nông thôn của tỉnh vươn lên phát triển khá so với các tỉnh trong vùng ĐBSCL vào năm 2020 sẽ đạt được. 

Năm cây trồng chủ lực của tỉnh qua 15 năm như sau: Cây lúa, diện tích gieo trồng hàng năm 210.000ha, sản lượng ổn định 1,2 triệu tấn/năm, riêng năm 2018 có thể gần 1,3 triệu tấn/năm. Cây mía, năm 2004 diện tích trồng là 14.098ha, năng suất bình quân 73,6 tấn/ha; đến năm 2018, diện tích trồng còn 10.582ha, năng suất bình quân tăng lên 100 tấn/ha. Cây màu, từ diện tích 9.198ha, sản lượng 88.083 tấn của năm 2004, đến nay diện tích trồng tăng lên 19.000ha, sản lượng 236.833 tấn, đạt 105,3%, tăng 2,7 lần so với năm 2004. Cây ăn trái, nếu như năm 2004 diện tích là 20.958ha, sản lượng 126.000 tấn thì đến nay diện tích tăng lên 37.700ha, sản lượng đạt 339.696 tấn, đạt 125,7% kế hoạch. Cây khóm, diện tích từ 1.368ha, sản lượng 12.210 tấn vào năm 2004 nay tăng lên 1.960ha, sản lượng 26.460 tấn.

Theo HỮU PHƯỚC (Báo Hậu Giang Online)