Trong một trung tâm giống ở miền Nam đang có đàn tôm sú giống 2.000 con thuộc 100 gia đình có ký hiệu là G7

19/10/2025 - 10:45

Tại Hội nghị Phát triển giống tôm nước lợ do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với UBND tỉnh Khánh Hòa tổ chức mới đây, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II đã có báo cáo về kết quả nghiên cứu chọn giống tôm sú và giới thiệu đàn tôm chọn giống hạt nhân thế hệ G7 gồm 2.000 con cỡ thuộc 100 gia đình hiện đang nuôi tại Trung tâm Quốc gia giống Hải sản Nam Bộ.

Tôm sú (Penaeus monodon) là một trong những đối tượng nuôi nước lợ chủ lực có giá trị kinh tế ở đồng bằng sông Cửu Long. Nguồn tôm bố mẹ sử dụng cho sản xuất tôm giống được khai thác từ tự nhiên chủ yếu trong những thập kỷ trước và hiện nay nguồn này ngày càng cạn kiệt và không đảm bảo chất lượng nên dần được bổ sung bằng nguồn tôm bố mẹ chọn giống nhập nội.

Theo kế hoạch của ngành thủy sản là cần chủ động được 90% nguồn tôm sú bố mẹ chất lượng, vì vậy nghiên cứu chọn giống tôm sú được xem là phương thức khoa học và hiệu quả nhất để cải thiện di truyền và tạo ra dòng bố mẹ chất lượng.

Nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất, chính phủ đã có nhiều chương trình nghiên cứu nhằm chủ động nguồn tôm sú bố mẹ chất lượng tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II từ năm 2012 đến năm 2025 và chia làm 4 giai đoạn.

 Giai đoạn 2012- 2015: Tôm sú (Penaeus monodon) gia hóa từ 3 nhóm tôm tự nhiên có nguồn gốc từ Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, nội địa (từ các vùng biển Rạch Gốc-Cà Mau, Đà Nẵng, Sông Cầu-Phú Yên)] và tôm gia hóa tại Việt Nam (Công ty Moana).

Giai đoạn 2016- 2019: Kế thừa nguồn tôm chọn giống tăng trưởng nhanh thế hệ G1 của giai đoạn 2012- 2015, chọn ra 1.076 con gồm 530 con cái và 546 con đực tiền thành thục.

Giai đoạn 2020-2021: Kế thừa đàn tôm tăng trưởng nhanh thế hệ G4 từ giai đoạn 2016- 2019.

Giai đoạn 2022- 2025: Kế thừa đàn tôm chọn giống tăng trưởng nhanh thế hệ G5 từ giai đoạn 2020- 2021.

Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II đã trải qua hơn 13 năm nghiên cứu, chọn tạo để tạo ra đàn tôm sú giống thuộc thế hệ G7. Ảnh minh họa.

Kết quả, trong giai đoạn từ năm 2012- 2015: Thực hiện đề tài “Ứng dụng di truyền số lượng và di truyền phân tử để tạo vật liệu ban đầu cho chọn giống tôm sú theo tính trạng tăng trưởng”, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II đã thành công trong việc tạo được quần đàn chọn giống ban đầu G0 từ 3 nhóm tôm tự nhiên có nguồn gốc từ Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, nội địa và 1 nhóm tôm gia hóa; chọn lọc được quần đàn G1 với quy mô 760 con từ 77 gia đình.

Giai đoạn từ năm 2016- 2019, thực hiện đề tài “Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo tôm sú (Penaeus monodon) bố mẹ tăng trưởng nhanh” từ nguồn tôm sú thế hệ G1 của giai đoạn trước, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II đã tạo ra được 3 thế hệ tôm sú (G2, G3 và G4).

Tỷ lệ sống của tôm thả nuôi trong ao bán thâm canh tại miền Nam là 27 - 49,5% với khối lượng thân tôm tương ứng từ 22,6 - 39g; Tôm nuôi đánh giá trong ao bán thâm canh tại miền Nam của 3 thế hệ có hệ số di truyền ước tính đối với tính trạng tăng trưởng là từ 0,28- 0,58. Đề tài đã thực hiện phát triển thư viện Transcriptome và bộ chỉ thị phân tử liên quan đến tính trạng tăng trưởng; sản xuất và phát tán tôm sú chọn giống đến các đơn vị để nuôi lên bố mẹ: 5.000 tôm PL15 và 66.200 con tôm hậu bị, kết quả các đơn vị tiếp nhận nuôi lên bố mẹ và sinh sản đạt các chỉ tiêu như khối lượng tôm đực 80,8-99,6 g/con, khối lượng cái 91,5-122,8 g/con, sức sinh sản 210,2-275,9 ngàn trứng/lần đẻ.

Giai đoạn từ năm 2020- 2021: Viện thực hiện ghép cặp lai tạo ra thế hệ G5 và nuôi duy trì bảo tồn 50 gia đình thế hệ G5.

Toàn cảnh Hội nghị Phát triển giống tôm nước lợ do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với UBND tỉnh Khánh Hòa tổ chức.

Giai đoạn từ năm 2022 đến nay: Viện thực hiện đề tài “Nghiên cứu chọn tạo tôm sú tăng trưởng nhanh, có khả năng chống chịu một số điều kiện môi trường bất thuận” đạt được những kết quả sau: Từ 50 gia đình tôm thế hệ G5 của đề tài chọn giống tôm sú giai đoạn 2016- 2019 tạo ra 139 gia đình ở thế hệ G6.

Tôm chọn giống thế hệ G6: Tỷ lế sống nuôi trong ao bán thâm canh tại Cà Mau và trong hệ thống an toàn sinh học tại Vũng Tàu lần lượt là 64,26% và 72,26% với trọng lượng tôm trung bình là 28,3 và 24,5g.

Tôm chọn giống thế hệ G7: Tỷ lế sống nuôi trong ao bán thâm canh tại Cà Mau và trong hệ thống an toàn sinh học tại Vũng Tàu lần lượt là 63% và 65,5% với trọng lượng tôm trung bình là 28,7g và 28,3g.

Khối lượng thân của tôm sinh sản thế hệ G7 trung bình 99,73g/con. Tỉ lệ tôm thành thục là 64,5%; sức sinh sản 402 ngàn trứng/1 tôm mẹ đẻ lần đầu; tỷ lệ sống từ Nauplius đến PL15 là 63,4%.

Đàn tôm chọn giống hạt nhân thế hệ G7 gồm 2.000 con cỡ > 25g thuộc 100 gia đình hiện đang nuôi tại Trung tâm Quốc gia giống Hải sản Nam bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.

Theo Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II, ưu thế phát triển ngành tôm hiện nay là sản xuất có trách nhiệm và bền vững, trong đó các tổ chức như Hội đồng quản lý nuôi trồng thủy sản (ASC) và Liên minh nuôi trồng thủy sản toàn cầu (GAA) đang thiết lập các tiêu chuẩn ngành về sản xuất tôm có trách nhiệm và bền vững với việc giảm sử dụng kháng sinh, giảm thiểu việc phá hủy môi trường sống và cải thiện điều kiện lao động.

Do vậy, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II cho rằng, chúng ta cần ứng dụng những thành công trong công nghệ trí tuệ nhân tạo vào lĩnh nghiên cứu khoa học di truyền chọn tạo giống cũng như trong các công trình nuôi, công nghệ thu hoạch - bảo quản- chế biến và công tác quản lý để tạo ra sản phẩm tôm Việt Nam có chất lượng cao và đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Theo Danviet.vn