
Chỉnh trang khu vực Hồ Sen trước năm 2004.
Từ năm 1987 đến năm 1998, quá trình đổi mới mang lại nhiều kết quả thiết thực; làm tiền đề tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa công cuộc xây dựng và phát triển quê hương.
Ở lĩnh vực phân phối lưu thông, chấp hành chỉ thị cấp trên, thị trấn xóa bỏ “ngăn sông, cấm chợ”, rút các trạm gác không cho lưu thông các mặt hàng lương thực, thực phẩm, trả lại việc mua bán bình thường. Cùng với đó, tuyên truyền phổ biến rộng rãi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần. Được chủ trương khuyến khích, nhân dân bung ra làm ăn, mở rộng sản xuất. Dần dần, Nhà nước tiếp tục xóa bỏ cơ chế “tem, phiếu”; xác lập cơ chế thị trường tự do, huy động nhiều nguồn cung ứng hàng hóa cho Nhân dân.
Về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thị trấn kêu gọi những người trong địa phương có tay nghề, có vốn, mạnh dạn đăng ký thành lập cơ sở sản xuất. Thị trấn mua lại khung nhà tiền chế của Trường Thiếu sinh quân tỉnh, để làm cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Khi vùng ngoại thị và các xã Hỏa Lựu, Vị Tân mở rộng sản xuất cây mía, nhiều hộ ở thị trấn Vị Thanh đã mở lò đường, sản xuất đường cát, Vị Thanh bắt đầu vươn ra thị trường.
Trong cải tạo nông nghiệp, phát triển sản xuất, khắc phục nạn chạy theo thành tích, nóng vội, gò ép nông dân vào làm ăn tập thể. Đồng thời, tiếp tục khuyến khích người nông dân thực hiện cơ chế khoán trong sản xuất nông nghiệp, theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khóa X), về “đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”, cùng các Chỉ thị 240, 240B của UBND tỉnh Hậu Giang.
Thời kỳ 1988-1990, địa bàn thị trấn cũng xảy ra tranh chấp đất đai nông nghiệp, nhưng không nghiêm trọng. Thị trấn đổi mới phương thức quản lý tại các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất bằng cách giao cho từng hộ trực tiếp quản lý sản xuất, khuyến khích nông dân mạnh dạn ứng dụng khoa học kỹ thuật với phương thức IPM vào đồng ruộng. Từ đó năng suất và sản lượng lúa tăng lên gấp 2 lần, năm 1989 đạt 4 tấn/ha.
Song song đó, thị trấn tiến hành nâng cấp bộ mặt kết cấu hạ tầng đô thị và nông thôn, nỗ lực tạo nên chuyển biến mạnh mẽ về mỹ quan đô thị, xứng đáng là trung tâm - Huyện lỵ huyện Vị Thanh. Chỉ 1 năm sau ngày có chủ trương đổi mới; thị trấn đã trải đá, tráng nhựa các tuyến đường Nguyễn Huệ, 1/5, Nguyễn Trãi, Đoàn Thị Điểm. Đây là lần chỉnh trang hạ tầng giao thông nội thị quy mô, có sự đầu tư khá lớn, từ sau ngày giải phóng 1975. Song song đó, hạ tầng nông thôn và các tuyến giao thông cũng được hoàn thiện, từ cầu Vị Bình đến vành đai Cầu Trắng.
Đến cuối năm 1992, thị trấn đã chủ động được nguồn tài chính nhờ các nguồn thu thuế từ các doanh nghiệp, hộ tiểu thương, cơ sở dịch vụ sản xuất tiểu thủ công nghiệp làm ăn có hiệu quả.
Sang thời đổi mới, gương mặt đô thị Vị Thanh khởi sắc rõ nét, nhà phố sửa chữa khang trang hơn; các cửa hàng, quán xá mở ra dần, các biển hiệu quảng cáo mang nhiều cung cách rực rỡ màu sắc. Được sự hỗ trợ của huyện; nhà lồng chợ Vị Thanh (đường Hai Bà Trưng) cùng một số cửa hàng thương nghiệp được xây dựng mới, đi vào hoạt động, thu hút nhiều hộ đăng ký kinh doanh, tạo nên không khí mua bán nhộn nhịp. Các bến xe, bến tàu ngày càng tăng nhiều chuyến đi, về Cần Thơ, Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng, Vĩnh Thuận, Hồng Dân và nhiều vùng lân cận.
Năm 1992, từ sự đầu tư của tỉnh, phà Cái Tư được tái lập, mở ra hướng phát triển về phía Cầu Đúc, kết nối tỉnh Kiên Giang, sau nửa thế kỷ đứt đoạn do chiến tranh, khu vực hồ sen được chỉnh trang lại, trở thành công viên văn hóa - giải trí. Rạp Mỹ Thanh tiếp nhận nhiều đoàn nghệ thuật từ Thành phố Hồ Chí Minh, cùng các tỉnh đến biểu diễn,... Đáng chú ý là, giai đoạn này hình thức chiếu phim, video qua băng hình phổ biến rộng rãi, từ rạp chiếu bóng nhà nước đến các quán cà phê tư nhân, góp phần nâng cao đời sống văn hóa nhân dân thị trấn.
Bước sang giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào cuối thập niên 90 (thế kỷ XX) - thị trấn Vị Thanh tiếp tục phát triển, theo xu thế mới chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Sản xuất nông nghiệp đi lên theo hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nhờ làm tốt công tác thủy lợi. Hàng năm, huy động hơn 16.000 ngày công đào đắp phục vụ sản xuất.
Kết quả, diện tích, năng suất, sản lượng đều tăng. Cuối năm 1996 tổng diện tích gieo trồng đạt 3.456ha, hệ số sử dụng đất tăng lên 2,8 lần. Bình quân lương thực đầu người 1.300kg/năm. Thị trấn chỉ đạo cải tạo được 70ha vườn tạp. Ngoài ra, hoàn thành xét đề nghị cấp trên cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở vùng ven và nội ô tạo điều kiện cho người dân an tâm sản xuất.
Theo Báo Hậu Giang