Sau khi Chính phủ Mỹ công bố mức thuế tạm thời 10% được áp dụng đến ngày 9/7, các doanh nghiệp thủy sản ngay lập tức nắm bắt cơ hội đẩy mạnh giao hàng sang Mỹ trong tháng 4 và nửa đầu tháng 5 nhằm tránh rủi ro bị áp thuế cao hơn (có thể lên đến 46%) sau ngày 9/7 - thời điểm kết thúc giai đoạn 90 ngày áp thuế tạm thời. Điều này đã giúp kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 4 tăng mạnh trên 900 triệu USD và tháng 5 là 851 triệu USD, góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu thủy sản 5 tháng ước đạt 4,2 tỷ USD, tăng 18,2% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, theo một số doanh nghiệp, hoạt động xuất khẩu sang Mỹ đã giảm dần từ trung tuần tháng 5 và động thái này là để đề phòng rủi ro thương mại.

Đa dạng thị trường và đa dạng sản phẩm xuất khẩu thủy sản là một trong những chiến lược thoát hiểm của doanh nghiệp trong bối cảnh rủi ro thương mại ngày càng gia tăng. Ảnh: TÍCH CHU
Mặt hàng tôm vẫn là điểm sáng của ngành thủy sản khi đạt 363 triệu USD trong tháng 5, tăng mạnh 12,4% và chiếm hơn 42% tổng kim ngạch. Tính chung 5 tháng đầu năm, xuất khẩu tôm đạt hơn 1,66 tỷ USD, tăng 28,3%. Nhận định về kết quả xuất khẩu trên, các doanh nghiệp cho rằng, các con số trên đã phản ánh một cách rõ nét xu hướng phục hồi rõ rệt của thị trường và nhu cầu tốt từ Mỹ, Nhật Bản và các nước CPTPP. Tuy nhiên, trước bất ổn từ chính sách thuế đối ứng của Mỹ, nhiều doanh nghiệp thủy sản đã và đang xác định lại chiến lược thị trường theo hướng đa dạng hóa và tăng cường chế biến sâu. Chiến lược đa dạng hóa trên được xem là lối thoát cho doanh nghiệp trong bối cảnh rủi ro thương mại gia tăng.
Không chỉ có giá trị kim ngạch xuất khẩu, sự chuyển dịch cơ cấu sản phẩm cũng là một điểm sáng của ngành trong 5 tháng đầu năm. Các sản phẩm chế biến giá trị gia tăng, như: cá tra tẩm bột, mực chế biến, hay bạch tuộc đông lạnh, đều ghi nhận tăng trưởng mạnh, phản ánh xu hướng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tiện lợi và cao cấp tại các thị trường lớn. Điều này cho thấy doanh nghiệp Việt Nam đang đầu tư mạnh vào công nghệ chế biến và đa dạng hóa sản phẩm để tăng sức cạnh tranh. Tuy nhiên, để duy trì đà tăng trưởng, bên cạnh sự nỗ lực của doanh nghiệp và VASEP, ngành rất cần có sự ổn định nguồn cung nguyên liệu cũng như các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ như: giãn nợ, giảm lãi vay và đơn giản hóa thủ tục hành chính để doanh nghiệp đủ sức vượt qua khó khăn tài chính.
Tuy nhiên, hành trình chinh phục thị trường quốc tế không hề dễ dàng. Hoa Kỳ, thị trường lớn đang áp dụng chính sách thuế quan mới, đặc biệt là thuế 10% đối với sản phẩm chế biến. Không những thế, nguy cơ thuế đối ứng lên tới 46% cùng với các mức thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp đối với tôm và cá tra, cùng với chương trình SIMP mở rộng và yêu cầu truy xuất nguồn gốc khắt khe, đang đặt doanh nghiệp Việt Nam trước áp lực lớn. Đạo luật Bảo vệ Động vật biển có vú (MMPA) cũng là một thách thức lớn vì thủy sản Việt Nam có thể phải đối mặt nguy cơ cấm nhập khẩu từ năm 2026 nếu các thủ tục cần thiết không đáp ứng yêu cầu của Hoa Kỳ.
Còn tại EU, cảnh báo thẻ vàng IUU tiếp tục là rào cản, gây chậm trễ trong cấp giấy chứng nhận và làm gián đoạn các lô hàng. Trung Quốc, dù tăng trưởng mạnh, lại đối mặt với cạnh tranh từ sản phẩm nội địa và áp lực kiểm soát chất lượng. Ngoài ra, chi phí sản xuất tăng cao, từ nguyên liệu, thức ăn, đến logistics, cùng với thiếu hụt container và giá cước vận chuyển tăng, đang làm giảm biên lợi nhuận của doanh nghiệp. Trước những thách thức này các doanh nghiệp đã linh hoạt chuyển hướng sang các thị trường tiềm năng như Nhật Bản, Hàn Quốc và ASEAN, Trung Đông, tận dụng lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do. Việc đẩy mạnh chế biến sâu và phát triển sản phẩm giá trị gia tăng không chỉ giúp tăng kim ngạch mà còn giảm phụ thuộc vào các thị trường truyền thống biến động.
Cũng theo VASEP, từ nay đến tháng 7 - thời điểm Mỹ sẽ quyết định mức thuế chính thức áp với một số sản phẩm từ Việt Nam - dự kiến hoạt động xuất khẩu sang thị trường này sẽ tiếp tục thận trọng. Các doanh nghiệp cần tính toán thời điểm giao hàng hợp lý để vừa tránh rủi ro về thuế, vừa không mất đơn hàng. Theo kịch bản được VASEP đặt ra, nếu mức thuế vẫn ở mức 10% sau thời điểm 9/7, ngành thủy sản có thể duy trì xuất khẩu ổn định, còn nếu mức thuế 46% được áp dụng, hoạt động xuất khẩu sẽ sụt giảm đáng kể và buộc phải tái cơ cấu thị trường quyết liệt hơn. Do đó, theo khuyến nghị của VASEP, trong dài hạn, ngành cần tranh thủ các hiệp định thương mại tự do (FTA) như: CPTPP, EVFTA, UKVFTA để mở rộng thị trường, đồng thời nâng cấp hạ tầng, giảm chi phí logistics và tăng khả năng đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Chính phủ cũng cần có chính sách tín dụng, hỗ trợ vùng nuôi và đầu tư chế biến để tăng năng lực cạnh tranh toàn ngành.
Mỹ là thị trường hàng đầu của tôm Việt, nên ông Hồ Quốc Lực - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta nhận xét: “Thuế quan này tác động tới cục diện thương mại toàn cầu, không riêng nước ta; nhưng xét riêng ngành tôm thì tôm ta có phần bất lợi vì mức thuế tôm từ các nước đối thủ thấp hơn nhiều”.
Trong bối cảnh thị trường toàn cầu biến động không ngừng, ngành thủy sản Việt Nam đã thể hiện bản lĩnh và ghi dấu ấn không chỉ bằng sự thích ứng linh hoạt cùng nỗ lực vượt qua những rào cản thương mại ngày càng khắt khe, mà còn bằng cả những con số tăng trưởng ấn tượng trong 5 tháng qua. Hy vọng, bản lĩnh và sự thích ứng đó sẽ tiếp tục được các doanh nghiệp phát huy để tiếp tục củng cố vị thế của ngành trên thị trường thế giới.
Theo Báo Sóc Trăng