Du khách nước ngoài thích thú với cảnh sắc hoa kiểng tuyệt đẹp tại Nhà cổ Bình Thủy. Ảnh: DUY KHÔI
Nguồn gốc của thú chơi cây kiểng được bắt đầu bằng truyền thuyết sau: Ngày xưa có một vị vua tính tình hung bạo, làm khốn đốn dân lành. Nhiều vị quan đứng lên khuyên can, đều bị xử trảm, hoặc bị bãi chức; nên các quan mới bàn bạc tìm cách để lôi kéo vị vua đó hồi tâm hướng thiện. Kế hoạch là trồng nhiều cây kiểng có thế mang ý nghĩa riêng trong vườn thượng uyển để nhà vua thưởng thức. Một hôm nhà vua đi dạo, thấy chung quanh có nhiều cây mới lạ, đẹp mắt, nhà vua hỏi, các quan mới dùng thế cây kiểng để giải thích về đạo đức luân thường, lòng yêu nước yêu dân… Nhà vua bắt đầu say mê kiểng cổ, dần dần trở nên minh triết, có lòng hướng thiện... Năm đó trong nước có thiên tai, bị bão lụt, đói khổ, nhà vua đã mở kho thóc cứu đói và phát chẩn cho dân nghèo...(1)
Câu chuyện có phần truyền thuyết, nhưng cũng phản ánh lợi ích của việc chơi kiểng đối với tinh thần và tính cách của con người. Ngoài việc làm dịu những nỗi bực dọc, giảm căng thẳng, chơi kiểng còn góp phần giúp con người hướng về thiên nhiên, hướng thiện. Bởi vì chơi kiểng trước hết là niềm vui thích và ngạc nhiên về tài trí, óc thẩm mỹ và bàn tay khéo léo của con người. Để có được những cây kiểng đẹp, những thế kiểng hay, người chơi phải lao tâm khổ tứ trong việc chọn cây, chăm sóc, nuôi dưỡng... sao cho mỗi cây kiểng vừa là một tác phẩm nghệ thuật vừa là một thông điệp mà người chơi muốn gửi gắm vào đó(2). Nhiều người còn quan niệm thú chơi cây kiểng phản ánh một phần luật luân hồi, của sự chuyển hóa. Cho nên cây trúc phải uốn theo hình con rồng, gốc là đầu, ngọn trúc là đuôi. Rồng hả miệng ngậm trái châu, mắt lộ ra, đuôi thì vùng vẫy. Thảo mộc biến ra thú vật, từ vô tri tiến đến hữu tri, tịnh trở thành động, phàm tục hóa ra linh hiển. Hay gốc cây sung phải uốn theo hình con cóc. Sung là sung túc, con cóc nghiến răng thì trời mưa, nhà nông tha hồ cày cấy. Cóc là con thiềm thừ ở cung trăng. Cây mai chiếu thủy, cây sộp uốn theo hình con kỳ lân. Kỳ lân xuất hiện là điềm hòa bình, tức là sự bình yên cho gia chủ (3).
Cây kiểng ở Nam bộ có nhiều loại. Chỉ riêng xương rồng kiểng cũng đã có đến hàng chục tiểu loại khác nhau, phân biệt bởi hình thể (tròn, dài, có khía...), màu sắc (xanh đậm, xanh nhạt, tím nhạt, trắng phấn...), cấu trúc (đơn, kép, một tầng, nhiều tầng...), kiểu gai (phân bố đều, tập trung thành nhiều điểm, dài, ngắn, to, nhỏ khác nhau)... Vì thế người ta đã đặt cho xương rồng kiểng nhiều tên lạ tai: kim cương, khủng long, kẽm gai xanh, kẽm gai đen, móc câu đỏ, móc câu đen, nha tượng xanh, quầy chuối lớn, quầy chuối nhỏ, thái dương, đuôi chuồn, gạc nai... Bên cạnh các loại kiểng không uốn được như cọ, thiên tuế, xương rồng... người ta chú ý nhiều đến các loại kiểng uốn được: kim quýt, cần thăng, bùm sum, tùng vạn niên, mai chiếu thủy, si, sung, gừa, bồ đề…
Kỳ hoa dị thảo: thiên tuế trổ bông. Ảnh: DUY KHÔI
Loại kiểng trồng vào chậu chính là dạng kiểng Bon sai. Bon sai là từ gốc Hán truyền qua Nhật vào thế kỷ XV, mà kiểng Nam bộ mới mượn vào vài chục năm nay. Bon sai đọc theo âm Hán Việt là Bồn tài có nghĩa là cây trong bồn. Trước khi Bon sai du nhập vào Việt Nam thì loài kiểng uốn trồng vào trong chậu thường được gọi là kiểng chậu. Kiểng chậu nói chung đồng nghĩa với Bon sai. Nó chỉ khác một điểm là thời trước kiểng chậu nổi tiếng thường là kiểng cổ thụ. Còn ngày nay Bon sai gồm cả hai loại kiểng cổ thụ và kiểng giả cổ thụ. Loại sau hiện đang thịnh hành hơn, vì chỉ cần thời gian nuôi dưỡng vài ba năm là có thể bán ra thị trường. Kiểng cổ thụ quý hiếm hơn nhiều, vì có cây phải trồng đến hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm. Việc trồng kiểng cổ thụ nói riêng, kiểng Bon sai nói chung, đòi hỏi công phu và tri thức nhất định. Chọn được cây giống thích hợp, tìm cách khống chế sự phát triển của cây, lá, cành, và biết điều khiển hướng đâm nhánh của cây, là ba khâu cơ bản trong nghệ thuật uốn kiểng.
Tạo hình thế cây kiểng là mục tiêu của nghệ thuật uốn kiểng. Có hai cách tạo hình: tạo hình thể mô phỏng (như mô phỏng con nai, con lân, con nghê, con công...) và tạo hình thể tượng trưng (như: mẫu tầm tử, phu thê, phụ tử, bằng hữu, hóa long, long ngọa, sơn thủy, trầm mặc...). Cách tạo hình thể thứ hai mới khó, vì cần óc thẩm mỹ và trí tưởng tượng tao nhã của người chơi kiểng. Và đây cũng chính là cách tạo hình thể của kiểng Bon sai.
Để thẩm định giá trị mỹ thuật của một kiểng Bon sai phải căn cứ vào 5 tiêu chuẩn sau: hình, thể, chi, thời, ý. Hình đòi hỏi phải có sự cân xứng giữa gốc, cành, nhánh và chậu kiểng. Thể đòi hỏi phải có khiếu thẩm mỹ về cách uốn cành để tạo ra được sự đối chọi hợp lý giữa âm và dương, thượng và hạ, cương và nhu, trần và đạo, tục và thanh... Chi đòi hỏi phải có kỹ thuật tỉa cành, phân đoạn sao cho số lượng cành, nhánh vừa đủ, không rườm rà quá, cũng không đơn điệu. Thời là số thời gian, công phu mà cây kiểng đã được đầu tư để chăm sóc, nâng niu, thường đánh giá qua độ già của gốc, rễ, độ từng trải của cây do những chỗ phình ra, eo vào, sần sùi, rạn nứt, dấu vết của những thương tật dị thường trên thân cây, biểu hiện độ dầu dãi phong sương của những vết nám trên da, chỗ móc meo dưới dát, đám mùn rêu nơi bìa rễ... Ý là ý nghĩa phong phú, đa dạng cả trong chiều rộng của liên tưởng lẫn trong chiều sâu của suy tư mà toàn bộ cây kiểng có khả năng gợi nên trong cảm hứng người chiêm ngưỡng(4).
***
Nam bộ là nơi có nhiều vùng trồng kiểng và có nhiều nghệ nhân chơi kiểng. Thú chơi kiểng của người Nam bộ đã có lịch sử từ rất lâu đời và còn phát triển mạnh đến ngày nay. Hiện nay, chơi kiểng không chỉ trở thành một nghề, có thể thương mại hóa mà còn là một thú vui tao nhã, giúp người ta an định tinh thần, bình an trong lòng trước những xô bồ của cuộc sống đời thường. Nhà thơ Trần Lê Văn quả là tinh tế khi cho rằng:
Những lúc buồn lo nặng trĩu người
Cha ra vườn cảnh thở nguồn vui
Lại chia tâm sự cùng cây cảnh
Lại thả hồn bay giữa đất trời.
Mỗi cây kiểng thế truyền thống Việt Nam đều chuyển tải một nội dung thiên luân, thế giáo, đạo lý làm người. Đó là những bài học sống động về nền tảng đạo đức rất dễ tiếp thu đối với con người(5).
Theo TRẦN KIỀU QUANG (Báo Cần Thơ)
----------------
(1) Dẫn Theo Huỳnh Văn Thới (2010), Bonsai kiểng cổ chậu xưa, Nxb Trẻ, tr.13.
(2) Thạch Phương - Hồ Lê - Huỳnh Lứa - Nguyễn Quang Vinh (1992), Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ, Nxb KHXH, Hà Nội, tr.212.
(3) Sơn Nam (2006), Gốc cây, cục đá và ngôi sao; Danh thắng miền Nam, Nxb Trẻ, tr.82-83.
(4) Thạch Phương - Hồ Lê - Huỳnh Lứa - Nguyễn Quang Vinh, Sđd, tr.214-216.
(5) Lê Quang Khang - Phan Văn Minh (2007), Cây thế Việt Nam: nghệ thuật - kĩ thuật và đạo chơi, Nxb Mĩ Thuật, Hà Nội, tr.25-27.