Đưa mắt nhìn về bếp lửa đang cháy bập bùng dưới chiếc nồi đất vừa rang nóng, ông Chau Sóc Sane không giấu được sự ưu tư bởi lẽ cái nghề làm cốm dẹp truyền thống ở xã Ô Lâm (Tri Tôn, An Giang) đã không còn thịnh hành như mấy chục năm về trước. Năm nay, Chau Sóc Sane đã ngoài 60 tuổi nhưng vẫn còn thừa sức cầm chày nện “huỳnh huỵch” xuống chiếc cối giữa sân để giã cốm mỗi khi cả sóc, phum đón mừng Tết Ok-om-bok (Tết cúng trăng).
Ông Chau Sóc Sane chia sẻ: “Trước kia, cả khu này có tới mấy chục nhà làm cốm dẹp để bán quanh năm, chứ không chỉ dịp Ok-om-bok, bởi không chỉ người Khmer mà người Kinh cũng thích món ăn này. Do nhu cầu xã hội ít đi nên còn 17 hộ theo nghề cách đây 3 năm. Hiện nay, người ta bỏ chày, bỏ cối đi Bình Dương, Đồng Nai hết rồi nên chỉ còn vài ba nhà làm cốm dẹp”. Trong đôi mắt lão nông Khmer này hiện lên ký ức về thời kỳ “hoàng kim” của hạt cốm dẹp, khi mà tiếng chày, tiếng cối cứ vang vọng khắp phum, sóc để đánh thức ông trăng tròn vào đêm rằm tháng 10 (âm lịch).
Dùng chày giã cốm
Hiện nay, Chau Sóc Sane đang cùng cô con gái Neáng Sóc Vy “giữ lửa” cho nghề làm cốm dẹp, trong khi 8 đứa con khác của ông buộc phải đến các tỉnh miền Đông Nam Bộ tìm kế mưu sinh. Để làm cốm dẹp, người ta chọn những hạt nếp mây mẩy, giống nếp chon-hô trứ danh vùng Bảy Núi hiện chỉ còn trồng rất ít ở xã Núi Tô, Cô Tô (Tri Tôn), để cho ra những mẻ cốm thơm dẻo, thắm đẫm mùi vị quê hương. Trước tiên, nếp được cho vào nồi đất để rang chín. Khi nếp nổ lách tách trong nồi, người ta đổ vào cối rồi dùng chày giã cho dẹp hẳn. Khi cốm dẹp, các mẹ, các chị lại phải sàng sẩy cho sạch vỏ, sạch bụi. Đó là công đoạn sơ chế. Muốn ăn cốm, các bà nội trợ sẽ phải trộn thêm dừa, đường và một ít nước dừa tươi. Trong đêm trăng tròn tháng mười, trên bàn thờ tổ tiên của đồng bào dân tộc thiểu số Khmer luôn có dĩa cốm dẹp với chuối tươi ăn kèm để cầu mong mùa màng tươi tốt và tưởng nhớ công ơn người đi trước.
Chị Neáng Sa Rết (hộ làm cốm dẹp khác tại Ô Lâm) thật tình: “Mỗi năm, tui chỉ làm cốm được 4 tháng, tức là từ tháng 10 đến hết tháng giêng nên nguồn thu không ổn định, buộc mình phải kiếm thêm nghề khác mưu sinh. Vì đây là nghề của cha ông để lại nên tui ráng giữ. Nếu mình siêng năng thì cốm dẹp mang đến nguồn thu cho gia đình. Trước kia có nhiều người ở Nhà Bàng (Tịnh Biên), Châu Đốc vô đặt cốm về bán, bây giờ họ đặt ít quá nên nguồn thu cũng giảm. Nhờ mấy năm gần đây được Hội Nông dân dẫn khách du lịch tới tham quan, mua cốm dẹp nên mình cũng có thêm thu nhập”.
Nếp chon-hô được rang trong nồi đất
Với nhiều người, cốm dẹp đã rất thân quen và gắn chặt vào ký ức thời thơ ấu. Quên sao được hình ảnh những mẹ, những chị kĩu kịt 2 đầu quang gánh với nào là xôi nếp, xôi bắp, cốm dẹp rồi cất tiếng rao “lanh lảnh” trên những nẻo đường ngập nắng. Ngày còn “ê a” đánh vần, ai chẳng được một lần nếm thử món cốm dẹp dân dã, “đặc sệt” chất quê này. Với đồng bào dân tộc thiểu số Khmer, cốm dẹp vừa gần gũi lại vừa thiêng liêng, bởi nó có thể “để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà” nhưng cũng là món bánh để dâng cúng tổ tiên, trời đất, cầu mong mưa thuận gió hòa.
Hiện nay, ông Chau Sóc Sane, chị Neáng Sa Rết hay những hộ chuyên là cốm dẹp còn lại ở xã Ô Lâm chỉ mong món ăn đặc sản này xuất hiện nhiều hơn trên bản đồ du lịch địa phương. Bởi, hướng phát triển tốt nhất cho một loại đặc sản chính là gắn liền với du lịch, được đến với nhiều nơi và giới thiệu với nhiều người. Do đó, rất mong các cấp, ngành chuyên môn sẽ có hướng tiếp tục hỗ trợ cho những hộ dân ở làng nghề này, để tiếng chày giã cốm sẽ còn vọng vang trong những ngày tháng sau này.
THANH TIẾN