Xây dựng chuỗi liên kết để nâng cao giá trị lúa gạo

30/06/2025 - 10:53

ĐBSCL là vùng sản xuất lúa gạo lớn nhất của cả nước. Những năm gần đây, nhờ ứng dụng hiệu quả tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, vùng ĐBSCL đã có bước phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, việc liên kết chuỗi giá trị lúa gạo cũng còn những khó khăn nhất định cần có giải pháp căn cơ, hiệu quả.

Nông dân hiện nay áp dụng triệt để các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, sử dụng giống lúa chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu khi gieo sạ.

Chưa phát huy được thế mạnh

ĐBSCL hàng năm sản xuất 55% sản lượng lương thực, cung cấp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu. Chính vì thế cho nên lúa gạo ở ĐBSCL đã trở thành ngành hàng có ưu thế rất lớn. Theo tiến sĩ Đoàn Mạnh Tường, Viện lúa ĐBSCL, cả nước nói chung, ĐBSCL nói riêng được biết đến là nơi sản xuất và xuất khẩu số lượng gạo hàng năm đứng nhất nhì thế giới. Năm 2024 xuất khẩu khoảng 9 triệu tấn gạo đem về khoảng 5,7 tỉ USD, tăng 11% về khối lượng và 24% về giá trị so với năm 2023. Mặc dù những năm qua, ngành nông nghiệp đã có những thay đổi đáng kể trong xây dựng thương hiệu gạo, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế như thiếu thương hiệu mạnh khiến người tiêu dùng khó nhận diện. So với Thái Lan, Ấn Độ thương hiệu gạo của Việt Nam chưa tạo được dấu ấn trên thị trường quốc tế cũng như chưa có sự khác biệt rõ ràng về chất lượng. Chất lượng gạo của Việt Nam chưa đồng đều, không ổn định trong quá trình sản xuất, cung cấp cho thị trường, bởi do chưa kiểm soát chặt chẽ quy trình sản xuất, chế biến, bảo quản. Vùng nguyên liệu sản xuất nhỏ lẻ, thiếu sự liên kết trong sản xuất… tạo tình trạng sản xuất manh mún, chi phí tăng cao. Truy xuất nguồn gốc sản phẩm đầu vào chưa được chú trọng quan tâm cũng ảnh hưởng nhiều đến việc xây dựng thương hiệu gạo cho Việt Nam.

Bên cạnh đó, công tác tổ chức liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo những năm qua gặp không ít thách thức và khó khăn không những không phát huy được thế mạnh vượt trội của vùng, mà còn làm thiệt hại không chỉ cho nông dân mà cả doanh nghiệp. Nhằm phát huy thế mạnh của toàn vùng, thời gian vừa qua đã có nhiều hội nghị, hội thảo bàn về vấn đề liên kết trong sản xuất giữa nông dân với nông dân, giữa doanh nghiệp với người sản xuất cũng như vai trò của Nhà nước trong liên kết. Công tác liên kết sản xuất và tiêu thụ bước đầu đã hình thành những hướng đi nhất định. Thể hiện rõ nét nhất là việc xây dựng cánh đồng mẫu lớn ở khu vực ĐBSCL. Cánh đồng mẫu lớn bước sang giai đoạn thứ hai dựa trên quy mô liên kết để trở thành cánh đồng lớn và định hình vùng nguyên liệu sản xuất ổn định nhiều năm tiến tới giai đoạn thứ ba là xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam.

Việc liên kết các đơn vị sản xuất chế biến tiêu thụ, cũng như xây dựng thương hiệu cho sản phẩm gạo xuất khẩu còn khó khăn, chưa thực chất thì việc phát huy năng lực quản lý, nghiên cứu và dự báo thị trường quốc tế vẫn còn yếu và là một hạn chế chính trong liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo ở ĐBSCL. Công tác xúc tiến thương mại chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Tình trạng thiếu thông tin kinh tế cơ bản, thông tin giá cả khiến cho việc tìm hiểu môi trường kinh doanh của các đơn vị sản xuất kinh doanh lúa gạo trở nên khó khăn, thậm chí gia tăng chi phí tìm hiểu và gia nhập thị trường, gây thiệt hại cho người sản xuất và kinh doanh. Liên kết trao đổi thông tin, thị trường tiêu thụ sản phẩm sẽ là giải pháp tốt nhất làm cho người sản xuất có nhiều thông tin về giá cả, định hướng sản xuất và lựa chọn trong việc sản xuất và kinh doanh. Muốn “liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo ở ĐBSCL” bền vững thì việc quan trọng trong xây dựng mối liên kết thị trường tiêu thụ sản phẩm lúa gạo cho người sản xuất trước tiên cần chú ý đến liên kết trao đổi thông tin cũng như thị trường tiêu thụ. Phải coi đây là một giải pháp quan trọng để tiến hành xây dựng các mối liên kết khác trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo theo hướng nâng cao chất lượng, giảm phát thải, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Mở ra hướng đi mới từ Đề án 1 triệu héc-ta

Theo tiến sĩ Đoàn Mạnh Tường, Đề án 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở ĐBSCL không những hướng đến giải quyết các thách thức trong sản xuất lúa gạo, nâng cao đời sống nông dân, bảo vệ môi trường, mà còn hướng đến xây dựng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ giúp tăng cường mối liên kết giữa nông dân, doanh nghiệp và hợp tác xã đảm bảo đầu ra ổn định, thông qua việc xây dựng vùng nguyên liệu đạt tiêu chuẩn chất lượng, từ đó nâng cao giá trị xuất khẩu lúa gạo.

Đề án 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở ĐBSCL như là một giải pháp để ngành nông nghiệp bước vào giai đoạn xây dựng một thương hiệu gạo mạnh. Việc chọn “Phát thải thấp, thích ứng với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững” như một đặc trưng và hướng đi riêng trong sản xuất lúa gạo và tạo thương hiệu sản phẩm gạo của Việt Nam là giải pháp phù hợp đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường. Hiện tại đã có sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức trong xây dựng thương hiệu nhãn hiệu cho gạo Việt Nam. Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam đã đi đầu trong xây dựng nhãn hiệu và ban hành quy chế sử dụng nhãn hiệu “gạo việt xanh phát thải thấp” nhằm hướng dẫn, chứng nhận sản phẩm gạo có nguồn gốc từ vùng sản xuất lúa của Đề án “Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030”.

Trong giai đoạn hiện nay, ĐBSCL đang tập trung đầu tư sản xuất, mở rộng thị trường, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn khi nguồn lực còn hạn chế thì việc phát huy tiềm năng thế mạnh của vùng trong phát triển sản xuất nông nghiệp là hết sức cần thiết. Đề án “Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030” cần tập trung phát huy lợi thế và khai thác hiệu quả tiềm năng trong đó lúa gạo là một trong 3 sản phẩm mũi nhọn cần được quan tâm, từ đó tạo điều kiện thuận lợi phát huy sức mạnh và xây dựng ĐBSCL trở thành vùng kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo phải được coi như là một xu hướng tất yếu, một giải pháp tiên quyết nhằm giúp cho ngành lúa gạo của ĐBSCL có thể nâng cao giá trị, thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững. Để đạt được hiệu quả cao, cần có sự phối hợp chặt chẽ của nông dân, doanh nghiệp, nhà khoa học và nỗ lực của chính quyền địa phương và các nhà quản lý. Đồng thời cần có chính sách hỗ trợ tài chính, đào tạo chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường tiêu thụ để thúc đẩy ngành hàng lúa gạo phát triển bền vững.

Ông Trần Trung Kiên, Giám đốc HTX Nông nghiệp Phước Lộc, xã Trường Long A, huyện Châu Thành A, cho biết thời gian qua HTX không ngừng cải tiến quy trình sản xuất, ứng dụng khoa học công nghệ và tạo dựng mối liên kết chặt chẽ giữa các thành viên trong HTX để nâng cao giá trị sản phẩm. HTX luôn củng cố mối liên kết với nông dân, doanh nghiệp và các tổ chức khoa học - kỹ thuật để xây dựng chuỗi giá trị lúa gạo. Áp dụng các tiến bộ kỹ thuật như canh tác thông minh, sử dụng giống lúa chất lượng cao và giảm sử dụng phân bón hóa học để giảm phát thải khí nhà kính. Việc này không chỉ giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo an toàn thực phẩm, và bảo vệ môi trường. Đặc biệt, nông dân trong mô hình sản xuất lúa phát thải thấp của HTX sử dụng bón phân theo nhu cầu của cây lúa, sử dụng phân hữu cơ giúp đất tơi xốp, tăng khả năng giữ nước và chất dinh dưỡng, từ đó cây lúa sinh trưởng tốt, ít sâu bệnh, năng suất và chất lượng được nâng cao. Canh tác theo mô hình cho lợi nhuận cao hơn khoảng 4 triệu đồng/ha so với canh tác truyền thống.

Ông Bành Đước Tín, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông và Dịch vụ nông nghiệp tỉnh Hậu Giang, cho biết: Thời gian qua đơn vị luôn đẩy mạnh thực hiện công tác chuyển giao khoa học kỹ thuật, tuyên truyền vận động người dân tham gia các mô hình khuyến nông, các chương trình, dự án nông nghiệp. Hướng dẫn nông dân, HTX, tổ hợp tác tham gia thực hiện các dự án, mô hình khuyến nông trong vùng nguyên liệu. Xây dựng kế hoạch thực hiện mô hình liên kết sản xuất lúa chất lượng cao, an toàn theo hướng hữu cơ, xây dựng các mô hình trình diễn theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, phối hợp tổ chức tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật và tuyên truyền vận động người dân tham gia sản xuất đảm bảo vệ sinh môi trường để nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng lợi nhuận cho bà con nông dân.

Theo các nhà khoa học, thành công nổi bật của ĐBSCL là tạo được các giống lúa cực sớm với thời gian sinh trưởng ngắn ngày, tránh được lũ lụt, chống chịu hạn hán, sâu bệnh, chịu phèn, chịu mặn. Nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ, những năm gần đây nhiều tiến bộ kỹ thuật mới được đưa ra và áp dụng trong canh tác, thu hoạch, bảo quản chế biến đã làm giảm thất thoát sau thu hoạch một cách đáng kể. Cùng với đó là việc tăng nhanh, bền vững diện tích sản xuất lúa Đông xuân, Hè thu bằng giống lúa cực sớm là yếu tố quan trọng để tăng năng suất, sản lượng lúa toàn vùng nói riêng và cả nước nói chung...

Theo Báo Hậu Giang