Thương hiệu khô cá sặc rằn U Minh Thượng đang có nguy cơ bị mai một.
►Nông dân gặp khó
Khô cá sặc rằn U Minh Thượng chính thức được công nhận nhãn hiệu tập thể từ năm 2011. Từ đó, nhiều nông dân vùng này, nhất là nông dân trong vùng đệm đã phát huy được tiềm năng, lợi thế sẵn có để nuôi cá và làm ra sản phẩm khô để thoát nghèo. Những năm qua, nhãn hiệu khô cá sặc rằn U Minh Thượng đã có mặt khắp nơi trong cả nước. Thế nhưng, niềm vui ấy chưa được bao lâu thì nay người dân bắt đầu lo lắng nhiều hơn. Bởi hiện tại, việc nuôi thả loại cá này lợi nhuận đem lại không cao hơn các loài cá khác và chuyện mất thương hiệu chỉ còn là thời gian.
Theo ông Nguyễn Văn Hiền, Chủ tịch Hội Nông dân huyện U Minh Thượng, trên địa bàn huyện chỉ còn 7 hộ nuôi cá sặc rằn, tương đương với 7ha mặt nước, chủ yếu ở hai xã nằm trong vùng đệm là An Minh Bắc và Minh Thuận. Trong khi đó, toàn huyện có đến 4.020ha mặt nước được người dân thả nuôi các loại cá nước ngọt khác: cá trê, rô, lóc… Vì đây là những loài cá đặc sản ở vùng này nên dễ bán, dễ tiêu thụ. Do vậy, theo đà này không lâu sau nếu không có nguồn nguyên liệu cá thì nhãn hiệu khô cá sặc rằn U Minh Thượng cũng sẽ dần mai một và mất đi.
Những người chuyên sản xuất làm khô cá sặc rằn cũng lo âu không kém. Hiện nay, nguồn cá để làm khô ngày càng giảm đi, sản phẩm làm ra cũng chẳng lợi nhuận nhiều, nên 16 hộ chuyên làm nghề này ở U Minh Thượng cũng bắt đầu tính chuyện bỏ nghề. Bởi giá bán hiện nay cũng không cao, muốn làm ra một ký khô thành phẩm phải mất từ 2,8-3kg cá tươi. Nếu trừ đi các khoản chi phí thì người làm khô ở đây lời khoảng 20.000 đồng/kg, có khi thấp hơn, nhưng không được thường xuyên mà mỗi năm chỉ có một vụ.
Không chỉ sản phẩm khô cá sặc rằn U Minh Thượng, mà hiện nay nhiều sản phẩm ở các địa phương trong tỉnh Kiên Giang vẫn đang gặp khó do không được duy trì và phát triển sản phẩm được công nhận nhãn hiệu tập thể: khoai lang bông súng, tiêu Ngọc Hòa (huyện Giồng Riềng), bí Vàm Răng (Hòn Đất), ghẹ lột Hòn Chông (Kiên Lương)… Dù đã được cấp chứng nhận nhãn hiệu tập thể, nhưng hiện nay nhiều địa phương đang loay hoay tìm hướng đi bền vững để cho các sản phẩm có nhãn hiệu tập thể được nhận diện trên thị trường.
Theo ông Trần Văn Ghẹ, Chủ tịch Hội Nông dân xã Ngọc Hòa, huyện Giồng Riềng, địa bàn xã có sản phẩm tiêu, sầu riêng, măng cụt được công nhận nhãn hiệu tập thể, nhưng đến nay chưa phát huy được hiệu quả. Lý do khi đã có nhãn hiệu tập thể, nhưng chưa có cách để bảo chứng nguồn gốc của sản phẩm địa phương. Trong khi đó, các cấp có thẩm quyền chưa hướng dẫn cho hợp tác xã phải làm gì để chứng minh được nguồn gốc khi đưa sản phẩm đưa ra thị trường, nên nông dân "tự bơi", tự tìm thị trường với rất nhiều khó khăn.
►Cần hướng đi thích hợp
Theo ông Trần Ngọc Hải, Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Giồng Riềng, việc đăng ký và công nhận nhãn hiệu cho một sản phẩm sẽ trở thành hàng rào chắc chắn nhất chống lại hàng gian, hàng giả, hàng kém chất lượng. Như vậy cùng với việc hỗ trợ xây dựng, bảo hộ và quản lý nhãn hiệu của cơ quan nhà nước, các chủ sở hữu và thành viên được sử dụng và khai thác nhãn hiệu tập thể cần đổi mới tư duy, chủ động khai thác và sử dụng nhãn hiệu một cách có hiệu quả; có ý thức gắn lợi ích cá nhân với lợi ích chung để cùng phát triển trong quá trình khai thác, quản lý phát triển nhãn hiệu tập thể do chính các sản phẩm mình làm ra.
Ông Khải nói thêm: "Khi nhãn hiệu được công nhận, vài năm sau nông dân không duy trì được, nhưng không được sự động viên, hỗ trợ của các cấp. Do vậy, khi nông dân gặp khó, cần sự sẻ chia với nông dân cùng với chính sách của địa phương hỗ trợ thì mới thúc đẩy được làng nghề truyền thống và các sản phẩm làm ra. Bên cạnh đó, sản phẩm của nông dân phải được các ngành chuyên môn giới thiệu không chỉ ra ngoài huyện, ngoài tỉnh, mà có thể là xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Theo ông Lê Hữu Toàn, Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Gò Quao, hiện nay, toàn huyện có 5 nhãn hiệu tập thể, hướng tới huyện sẽ quyết tâm để kêu gọi các doanh nghiệp, nông dân sản xuất đạt chuẩn để cung cấp ra thị trường theo hướng sơ chế, chế biến để ổn định lâu dài. Trong đó sẽ phối hợp với khuyến nông để mở rộng mô hình sản xuất theo hướng an toàn; ngành nông nghiệp huyện sẽ tổ chức cơ giới hóa trong sản xuất, nhất là trong sơ chế, chế biến. Xây dựng và quản lý thương hiệu tập thể cho một sản phẩm là một quá trình bao gồm nhiều khâu và phải qua nhiều công đoạn. Vì vậy, việc xây dựng và quản lý nhãn hiệu tập thể cần thực hiện một cách thận trọng với lộ trình và các bước đi cũng phải cụ thể cho từng giai đoạn.
Ông Dương Minh Tâm, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Kiên Giang, cho biết thời gian tới, đơn vị sẽ tiếp tục phối hợp cùng các ngành chức năng và địa phương tiếp tục hỗ trợ đăng ký, bảo hộ nhãn hiệu tập thể cho các sản phẩm, hàng hóa, làng nghề và làng nghề truyền thống của địa phương. Theo đó, hướng dẫn các doanh nghiệp đổi mới các công nghệ, tập trung các nghề truyền thống và làng nghề truyền thống để nâng cao giá trị sản phẩm hàng hóa.
Trước mắt, trong năm 2020, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Kiên Giang sẽ có những chính sách hỗ trợ và phát triển 4 thương hiệu nhằm định hướng và có giải pháp phù hợp cho từng sản phẩm đã được cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu tập thể. Bên cạnh đó, hỗ trợ xây dựng và triển khai đề án nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, hàng hóa cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Theo PHƯƠNG ANH (Báo Cần Thơ)