Ngày cuối năm ở làng than Phú Tân

09/02/2021 - 10:11

Những ngày giáp Tết Nguyên đán Tân Sửu, làng nghề hầm than ở ấp Phú Lễ, Phú Tân, Phú Tân A (xã Phú Tân, của huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang) nhộn nhịp hơn ngày thường.

Dọc theo kênh Cây Dương, kênh Xáng - nơi có nhiều gia đình làm nghề hầm than, người trên bờ hối hả vận chuyển than thành phẩm xuống ghe cho kịp con nước xuôi; người dưới bến sông tranh thủ đưa nhanh những cần xé củi đước chất vào lò cho kịp đầy trước Tết. Những khuôn mặt đen nhẻm, bàn tay lấm lem vì bụi than, tất bật, vất vả nhưng lúc nào cũng rộn rã tiếng nói cười.

Khấm khá nhờ than

Không ai nhớ chính xác làng hầm than ở xã Phú Tân có từ năm nào, những chủ lò thâm niên lâu năm thì bảo đó là nghề của truyền thống ông cha để lại. Cũng từ những lò than này, họ đã nuôi con cái ăn học thành tài, cuộc sống phất lên nhờ than.

Chuyển than bán cho thương lái. Ảnh: G.B

Anh Lê Văn Út, chủ lò than ở ấp Phú Tân, xã Phú Tân, cho biết: “Tôi vào nghề những 1980, hồi chưa lập gia đình, còn sống chung với cha mẹ. Rồi lấy vợ, ra riêng cũng làm than. Tôi hiện có 6 lò hầm than, công suất chứa củi trung bình 70-130 tấn củi/lò. Một năm ra lò khoảng 400 tấn than thành phẩm, thị trường tiêu thụ chủ yếu trong nước và một phần xuất khẩu. Nghề than có năm lời, năm lỗ nhưng cuộc sống ổn định, thu nhập cao hơn làm ruộng vườn”. Ở tuổi 53, anh Út có hơn 40 năm theo nghề than. Cũng nhờ nó mà anh nuôi 2 cô con gái ăn học thành tài, giờ cả hai đang là giảng viên của Trường Ðại học Tây Ðô.  

Anh Út kể, không chỉ gia đình anh, mà nhiều người trong họ hàng anh ở xóm Kinh Xáng, ấp Phú Tân A, hầu như ai cũng cho con cái học đại học. Theo anh Út, suốt 40 năm qua, lò than chỉ ngừng hoạt động tầm khoảng 5 năm. Ðó là lúc cơn bão số 5 càn quét ÐBSCL, nguồn củi đước, củi tạp từ tràm, bạch đàn, nhãn… bị bão tàn phá, nên không còn đủ để cung cấp cho các lò than nơi đây. Còn lại thì ngày nào lò than cũng đỏ lửa. Trung bình khoảng 1,5-2 tháng, than sẽ chín, chờ cho than nguội là ra lò. “Hồi chưa có dịch COVID-19, giá than 12.000 đồng/kg, dịch bùng phát, giá than rớt còn 7.000-9.000 đồng/kg. Năm được năm mất là vậy, nhưng bù lại cũng vẫn là nghề than cho thu nhập cao hơn nghề khác” - anh Út nói.

Ông chủ lò than Ðỗ Văn Khải cũng cho biết: “Tôi có 3 lò than sát lò anh Út, mỗi lò chứa 20-30 tấn củi. Nghề của ông ngoại để lại hơn năm 40 rồi. Than ở đây ra không bao giờ ế, thương lái đặt hàng không đủ bán. Họ mua cung cấp thị trường trong nước, xuất khẩu đi Ðài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản. Ở đây, con cái gia đình nào học tệ quá mới cho đi làm than. Con trai tôi năm nay mới lớp 9, học cũng giỏi. Tôi hy vọng nó học lên đại học, chứ đâu thể bám lò than như cha nó. Thời tôi học hành khó khăn nên mới chọn nghề than”. Theo anh Khải, kinh tế phát triển, những người làm than nơi đây mong muốn thế hệ con cháu của mình ra thị thành, học hành bài bản, xây dựng tương lai tốt hơn.   

Ðó là chia sẻ của những chủ lò bám nghề truyền thống, còn với những thương lái quen cảnh ngược xuôi theo con nước, cứ lên bờ lại nhớ nghề buôn than. Có 10 năm thâm niên bán than khắp miệt ÐBSCL, anh Nguyễn Quốc Toàn, ở xã Phú Tân cho hay, anh lớn lên trong làng than, làm thuê cho các chủ lò, rồi tích lũy vốn đi buôn than. Mỗi ký than, anh lời 500-600 đồng. Có ghe bán huề vốn vì dội chợ, nhu cầu thị trường thấp điểm, nhất là những đợt dịch COVID-19 diễn biến phức tạp. “Nhưng ngược xuôi theo con nước quen rồi. Lên bờ thấy bứt rứt, lại xuống ghe. Cứ chất đầy ghe 20 tấn, tôi đi một chuyến 7-10 ngày lại về lấy tiếp. Khi đi bỏ mối ở các tỉnh ÐBSCL, có hôm chở lên TP Hồ Chí Minh bán cho người ta xuất đi Nhật Bản” - anh Toàn kể.

Và những trăn trở...

Xã Phú Tân có tổng cộng 300 hộ dân làm nghề hầm than củi với khoảng 600 lò hầm than. Nghề hầm than đã giúp nhiều gia đình khấm khá, nhiều lao động địa phương không phải đi xa tìm việc, song môi trường đang bị ô nhiễm do bụi than và ảnh hưởng ít nhiều đến sức sống của những vườn cây vườn cây ăn trái nơi đây. Xã Phú Tân được quy hoạch là vùng trồng cây ăn trái, để phát triển bền vững, chính quyền địa phương nhiều năm qua đã vận động những chủ lò than đổi mới công nghệ, chuyển nghề để giảm bớt ô nhiễm môi trường.

Bà Lê Thị Thùy Như, Phó Trưởng Phòng TN&MT huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang, cho biết: “Ðến thời điểm này, tất cả các lò hầm than ở xã Phú Tân chưa có hệ thống xử lý khí thải. Năm 2019-2020, huyện phối hợp với Trường Ðại học Cần Thơ làm thí điểm hệ thống xử lý khói bụi tại một hộ dân. Trên cơ sở này, huyện sẽ xem xét nhân rộng mô hình ra các lò khác”. 

Với khoảng 600 lò hầm than, trung bình quân mỗi lò giải quyết việc làm thường xuyên cho khoảng 7-10 lao động. Nhiều lao động đang làm việc ở đây cho biết, lớn tuổi, không có tay nghề nên khó tìm việc ở chốn thị thành, khu công nghiệp. Chọn lựa của họ là làm việc tại những lò than của xã để có đồng ra đồng vào, vừa không phải đi xa vất vả mưu sinh. Nhất là tháng Tết, nhu cầu than trên thị trường tăng cao, việc làm cũng thường xuyên hơn. Thêm vào đó, họ là những người cùng xóm, nên cũng nương nhau trong làm việc. Công việc ra than chín là của chị em phụ nữ, khuân vác xuống ghe cho thương lái là của cánh đàn ông. Trung bình một ngày, một lao động làm việc ở lò than có thể kiếm khoảng 200.000-400.000 đồng/ngày, tùy việc nặng nhẹ.

Công đoạn ra than chín là của lao động nữ. Ảnh: G.B

Vừa chụm vội khúc củi tươi vào miệng lò, cô Huỳnh Thị Tiếu nói: “Hồi còn trẻ, tôi cùng chồng vác củi chất vào lò, ra than. Khoảng 3 năm nay, lớn tuổi sức yếu nên không còn làm việc nặng, tôi chuyển qua công việc chụm lò. Nhẹ nhàng hơn, nhưng chịu cực ban đêm để canh lửa lò, hết củi phải mồi liên tục. Ðược cái, việc quanh năm, lò này chín thì mình sang lò khác chụm tiếp”. Nhà cô Tiếu ở cụm dân cư vượt lũ ở xã Phú Tân. Không có ruộng vườn, nên cả gia đình cô làm thuê ở các lò than. “Ở đây không mần nghề này thì lấy gì ăn”- cô Tiếu nói.

Chị Lê Thị Thanh, ấp Phú Tân, cũng có thâm niên gắn bó với nghề than 7 năm, cho biết: “Một ngày tiền công 200.000-300.000 đồng. Tôi 44 tuổi rồi cũng khó đi tìm việc, nhà cũng có ít vườn tược, cây trồng không có trái thì chỉ đi làm mướn sống”.

Theo ông Trần Văn Luân, Chủ tịch UBND xã Phú Tân, huyện Châu Thành, hoạt động của làng than ít nhiều ảnh hưởng đến cây trồng, sức khỏe của người dân. Nhưng đây là nghề truyền thống, truyền qua nhiều thế hệ và làng nghề thời gian qua giúp hàng trăm hộ dân và rất nhiều lao động ở địa phương có cuộc sống ổn định, có hộ còn mua được đất, cất nhà mới. “Chính quyền xã mong các cơ quan chuyên môn đưa ra các giải pháp công nghệ để hỗ trợ những chủ lò than nơi đây cải tiến quy trình hầm than, nhằm đảm bảo môi trường và để làng nghề phát triển bền vững. Chứ không có làng nghề này, bà con lại bươn chải xa xứ” - ông Luân trăn trở.

Theo GIA BẢO - LÊ THANH (báo Cần Thơ)