Sóc Trăng: 2 câu chuyện lớn của ngành tôm

14/05/2024 - 14:47

Tại VietShrimp 2024 tổ chức tại Cà Mau vừa qua, các chuyên gia, nhà khoa học đều cho rằng, bên cạnh tầm quan trọng của con giống thì vấn đề dinh dưỡng và vi sinh là 2 câu chuyện lớn cho mục tiêu nâng cao tỷ lệ thành công, giảm giá thành trong nuôi tôm không chỉ ở hiện tại mà còn cho cả tương lai của ngành tôm trong tiến trình xanh hóa ngành tôm.

A A

Ngành tôm vốn rất phức tạp với nhiều biến số nên không thể cứ làm theo kinh nghiệm là thành công mà cần có cách tiếp cận mới. Và một trong số đó là ứng dụng vi sinh vào nuôi tôm như một giải pháp dùng thiên nhiên để cải thiện thiên nhiên. Đây cũng chính là thông điệp của giải pháp mục tiêu toàn diện mà Công ty Trách nhiệm hữu hạn Công nghệ kỹ thuật sinh hóa Thái Nam Việt mang đến với phiên hội thảo trong khuôn khổ VietShrimp 2024 khi nói về vai trò của vi sinh trong nuôi tôm. Theo đại diện của doanh nghiệp này thì hiệu lực của từng chủng vi sinh mới là vấn đề quan trọng chứ không phải từng loài, bởi mỗi chủng vi sinh sẽ có 1 chức năng riêng biệt. Do đó, việc xác định và chọn chủng vi sinh nào để mang lại hiệu quả cao nhất mới là cách sử dụng vi sinh thông thái nhất.

Bổ sung khoáng chất giúp tôm khỏe mạnh, tăng sức đề kháng với dịch bệnh. Ảnh: TÍCH CHU

Cùng đánh giá cao vai trò của vi sinh trong phát triển bền vững nghề nuôi tôm, Tiến sĩ Vũ Anh Tuấn - Chuyên gia thủy sản châu Á của Tập đoàn OLMIX, khẳng định: “Việc sử dụng vi sinh để thay cho kháng sinh và hóa chất khác không chỉ tốt hôm nay mà còn tốt cho tương lai. Hay nói một cách khác, vi sinh hiện là câu chuyện lớn của ngành tôm”. Cũng theo Tiến sĩ Tuấn, để sử dụng vi sinh trong phòng chống bệnh tôm có hiệu quả cần có sự phối hợp từ trong nghiên cứu cả về vi sinh có lợi lẫn vi sinh có hại. Đồng thời, vi sinh khi được đưa vào sử dụng phải có nguồn gốc rõ ràng, đặc biệt là về chủng loại.

Trong các phiên hội thảo, các diễn giả đều có chung nhận định rằng, không thể có môi trường trong sạch hoàn toàn (không có dịch bệnh), nên ngoài việc nâng cao sức đề kháng với dịch bệnh cho tôm nuôi ngay từ giai đoạn con giống thì việc sử dụng vi sinh kết hợp thêm với Enzime là hết sức cần thiết. Nói về vai trò của vi sinh và Enzime trong nuôi tôm, đại diện Công ty Cổ phần BQ&Q cho biết, vi sinh có lợi cạnh tranh môi trường, dinh dưỡng với vi sinh có hại làm giảm mật độ vi sinh có hại, từ đó hạn chế khả năng ô nhiễm môi trường ao nuôi và phát sinh dịch bệnh. Còn Enzime giúp phân giải thức ăn phức tạp thành chất dễ hấp thu, giúp tôm hấp thu tốt hơn, tăng trọng nhanh hơn, ít dịch bệnh hơn, chất thải ra môi trường từ đó cũng ít hơn, môi trường được tốt hơn.

Ứng dụng giải pháp lọc nước trực tiếp tại ao tôm để hạn chế ô nhiễm môi trường ao nuôi. Ảnh: TÍCH CHU

Trong phần chia sẻ về thành công của mô hình Grofarm, Tiến sĩ Lê Văn Khoa - Giám đốc Kỹ thuật toàn quốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Grobest Việt Nam cho biết, do con tôm chỉ hấp thu khoảng 20 - 30% dinh dưỡng, nên lượng đạm bị lãng phí trong quá trình nuôi tôm là rất lớn (70 - 80%). Vì vậy, để giải quyết vấn đề giảm chi phí, tăng tỷ lệ thành công và tăng lợi nhuận thì giải pháp dinh dưỡng và thức ăn chức năng được xem là yếu tố cơ bản nhất trong mô hình nuôi tôm của Grobest. Với giải pháp trên, Grobest đã xây dựng được trên 1.000 mô hình Grofarm với tỷ lệ thành công của mô hình này trong năm 2023 lên tới 93%. Đặc biệt, giá thành tôm nuôi loại 41 - 50 con/kg chỉ vào khoảng 77.400 đồng/kg, giúp người nuôi có tỷ suất lợi nhuận lên đến 61%.

Cũng liên quan vấn đề dinh dưỡng, theo đại diện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Entobel, nguồn bột cá để sản xuất thức ăn tôm là có giới hạn do chủ yếu khai thác từ tự nhiên. Vì vậy, sử dụng nguồn đạm từ côn trùng sẽ là sự thay thế hoàn hảo vì không những đáp ứng tiêu chí về giá thành cạnh tranh mà còn đáp ứng tốt các yêu cầu về tín chỉ carbon. Và một trong những nguồn đạm từ côn trùng có giá thành dễ chấp nhận nhất chính là ấu trùng của ruồi lính đen, vì đây là một loại côn trùng rất dễ nuôi và nguồn thức ăn chủ yếu từ các phụ phẩm trong nông nghiệp.

Cũng theo đại diện của Entobel, việc nuôi ruồi lính đen để thu ấu trùng làm thức ăn thủy sản là rất tốt cả về mặt kinh tế lẫn môi trường vì ruồi lính đen có khả năng xử lý gần như tất cả chất thải hữu cơ. Bản thân loài ruồi này có độ kháng với rất nhiều vi khuẩn, virus, nấm, còn trong ấu trùng của chúng cũng có rất nhiều acid amin có khả năng kháng với một số vi sinh vật gây bệnh cho tôm, trong đó có kháng chủng vibrio và kích thích hệ miễn dịch phát triển. Đại diện Entobel kết luận: “Nếu xét về góc độ kinh tế thì khi sử dụng thức ăn sản xuất từ ấu trùng ruồi lính đen sẽ cao hơn so với sử dụng bột cá, nhưng bù lại, hiệu quả sẽ cao hơn và đặc biệt còn có lợi ích rất lớn trong việc giảm phát thải khí nhà kính, giúp ngành tôm dễ đạt tiêu chí sản xuất xanh”.

Ngành tôm đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức không chỉ đến từ môi trường, dịch bệnh mà còn ở giá thành cao cùng các tiêu chí về an toàn vệ sinh thực phẩm, phúc lợi động vật và gần đây nhất là phát thải khí nhà kính. Do đó, chỉ có ứng dụng đồng bộ các giải pháp vào nuôi tôm, trong đó có dinh dưỡng và vi sinh cùng với thực hành nuôi tốt mới có thể giúp ngành tôm hóa giải những khó khăn, thách thức trên, vươn tới mục tiêu phát triển xanh, hiệu quả và bền vững.

Theo TÍCH CHU (Báo Sóc Trăng)