Chiều lặng gió, trong căn nhà nhỏ cuối hẻm đường Lê Quang Định, TP. Rạch Giá (Kiên Giang), nghệ nhân ưu tú Quốc Trạng vừa đàn, vừa ngân nga câu hát của bài “Dạ cổ hoài lang”. Giữa nhịp sống hối hả, lòng người chợt lắng lại, bị níu chân bởi câu ca mùi mẫn, sâu lắng ấy. Nó đã khơi gợi sự tò mò, thôi thúc chúng tôi đi tìm hiểu về lịch sử đờn ca tài tử (ĐCTT) - tinh hoa văn hóa Nam bộ.
.jpg)
Vợ chồng nghệ nhân ưu tú Quốc Trạng truyền dạy tiếng đờn, câu hát miễn phí cho các tài tử nhí tại nhà riêng.
SỨC SỐNG BỀN BỈ HƠN 100 NĂM
“Từ là từ phu tướng/ Bảo kiếm sắc phong lên đàng/ Vào ra luống trông tin chàng/ Năm canh mơ màng/ Em luống trông tin chàng/ Ôi gan vàng quặn đau í a...”, nghệ nhân ưu tú Quốc Trạng say sưa hát, giọng đầy cảm xúc, da diết như gửi gắm hết nỗi niềm, tâm sự của người xưa. Khi bản “Dạ cổ hoài lang” vừa dứt, mọi người vẫn còn lặng đi trong dư âm mượt mà của tiếng đờn, ông Trạng nhẹ nhàng đặt cây đàn xuống, giọng trầm ấm vang lên: “Bài “Dạ cổ hoài lang” của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu được xem là cội nguồn của điệu vọng cổ và là một trong những bài bản chính hình thành dòng ca cải lương Nam bộ. Về sau, chính bản vọng cổ lại được giới tài tử yêu mến và thường hát trong các buổi sinh hoạt đờn ca tài tử”.
Ngừng lại giây lát, ánh mắt ông Trạng lặng sâu như đang lần giở từng trang ký ức. Ông kể tiếp, chậm rãi như dẫn dắt một lớp học: “ĐCTT xuất phát từ nhã nhạc cung đình Huế và nhạc lễ dân gian. Cuối thế kỷ XIX, các nhạc sĩ theo phong trào Cần Vương mang nhạc vào phương Nam. Ở vùng đất con người hiền hòa, phóng khoáng này, những làn điệu ấy được “gạn lọc”, biến tấu thành tiếng đờn, câu ca đậm chất Nam bộ”.
Người nghe không ai cắt lời. Bởi khi ông Trạng nói về ĐCTT, người ta cảm nhận được cái tâm, cái tầm của một người không chỉ biểu diễn mà còn hiểu, sống và gìn giữ từng âm giai, từng làn điệu. Ông am hiểu sâu rộng về lịch sử hình thành, cấu trúc nhạc lý và các bài bản tổ của ĐCTT. Với ông, ĐCTT không chỉ là âm nhạc, đó là một phần máu thịt, là bản sắc văn hóa mà ông tự thấy mình mang trách nhiệm nối dài mạch sống ấy.
Không để chúng tôi đợi lâu, nhấp một ly trà nóng, ông Trạng kể tiếp: “Đến đầu thế kỷ XX, ĐCTT phát triển rộng khắp miền Nam, nhất là tại Bạc Liêu, Vĩnh Long, Long An, Mỹ Tho, Sài Gòn và chia thành hai nhóm, một nhóm ở miền Đông Nam bộ và các tỉnh phụ cận, nhóm còn lại ở miền Tây Nam bộ. Suốt thời gian dài, hai nhóm có nhiều cuộc giao lưu. Không chỉ tạo nên khối lượng tác phẩm đồ sộ các tài tử còn tiên phong biên soạn, sáng tác và giảng dạy nhạc tài tử theo phong cách riêng, góp phần quan trọng tạo nền tảng vững chắc cho ĐCTT sau này”.
Đến nay, bài bản tài tử đã lên tới vài trăm bản. Tuy nhiên, chỉ có 20 bài tổ được gọi là “nhị thập huyền tổ bản” thuộc hai điệu Bắc và Nam, trong đó có 6 Bắc, 3 Nam, 4 Oán và 7 bài nhạc lễ. Sau này, các nhạc sư còn đúc kết và phổ biến một hệ thống mới gọi là 72 bài bản cổ nhạc miền Nam, còn được gọi là “thất thập nhị huyền công”. “Bởi để đánh giá độ “sâu” vậy của các nghệ nhân, người ta còn đặt ra “tiêu chuẩn ngầm” là biết hết 20 bài bản tổ thì được coi là bậc thầy; trên bậc thầy thì buộc phải biết hết 72 bài bản cổ miền Nam”, ông Trạng bật cười nói, ánh mắt không giấu được sự tự hào.
Giai đoạn 1945-1975, chiến tranh ác liệt khiến phong trào ĐCTT chững lại. Âm nhạc phương Tây cùng sân khấu cải lương nở rộ nên ĐCTT có phần “lép vế”. Dù thăng trầm, âm sắc ấy vẫn bền bỉ hiện diện như mạch nguồn âm nhạc chưa bao giờ khô cạn trong lòng người dân Nam bộ. Những buổi ca tài tử dưới ánh đèn dầu, trong sân nhà quê mộc mạc hay giữa rừng sâu trong kháng chiến, tất cả đều là minh chứng cho sức sống dẻo dai của dòng nhạc này.
Tiếng đờn, lời ca không chỉ có trên sân khấu mà còn vang lên trong tiệc cưới, lễ hội hay cả khi ru trẻ thơ ngủ. Mỗi câu ca, mỗi nốt nhạc đều gói ghém bao tâm tư, nỗi lòng của người Nam bộ hiền hòa, trọng nghĩa, trọng tình. “ĐCTT là nghệ thuật để nghe, là thứ khiến người ta phải sống chậm lại, lắng lòng và hiểu hơn về cội nguồn văn hóa của dân tộc mình”, câu nói của ông Trạng như một bản vọng cổ kéo dài sâu lắng, dạt dào cảm xúc và đậm chất Nam bộ.
Say từ mê ĐCTT nhỏ, em Lê Diễm My, ngụ ấp Xẻo Ngát B, xã Tân Thạnh, huyện An Minh (Kiên Giang) thường nghe và hát vọng cổ những lúc gia đình quây quần cuối tuần. My chia sẻ với nụ cười rạng rỡ: “Dù các bài bản vọng cổ có từ lâu đời nhưng mỗi lần nghe, em lại cảm nhận được những tầng cảm xúc rất riêng. Nó như một cách để mình kết nối với quá khứ, hiểu hơn về văn hóa, con người Nam bộ”.
Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Kiên Giang Nguyễn Văn Sáu cho rằng, ĐCTT đã trở thành tinh hoa, hồn cốt của dân tộc. Những ngón đờn điêu luyện của nghệ nhân đã ăn sâu vào máu thịt người dân Nam bộ với các âm sắc riêng, không hòa lẫn với bất kỳ loại hình âm nhạc nào. “Với những giá trị hiện hữu và tầm quan trọng trong đời sống tinh thần của ĐCTT với người dân, năm 2013, ĐCTT Nam bộ được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là “bảo chứng” cao quý không chỉ với loại hình nghệ thuật này mà còn có ý nghĩa sâu sắc với những nghệ nhân, những người dầy công sáng tạo, gìn giữ, phát huy ĐCTT Nam bộ vươn tầm cùng dòng chảy nghệ thuật của thế giới”, ông Nguyễn Văn Sáu khẳng định.
-(6).jpg)
Buổi sinh hoạt của câu lạc bộ đờn ca tài tử ấp Năm Biển A, xã Nam Thái, huyện An Biên (Kiên Giang).
ĐỘC ĐÁO “DÂY ĐỜN RẠCH GIÁ”
Trong dòng chảy phát triển của ĐCTT, Rạch Giá lại góp vào một dấu ấn rất riêng, đầy sáng tạo với “dây đờn Rạch Giá”. Đầu năm 1930, giới tài tử ở đây đã tự mày mò cải tiến nhạc cụ. Ông Ba Lạc một - công chức mê nhạc là người đầu tiên thử nghiệm dùng đàn mandolin để chơi nhạc cổ. Không vừa ý, họ thử tới đàn octavina rồi cuối cùng là cây guitar được móc phím thành hình bán nguyệt. “Cây đàn này nhấn vô là âm thanh luyến láy, trầm bổng, mùi mẫn dữ lắm. Dân mình gọi đó là dây Rạch Giá luôn”, nghệ nhân Quốc Trạng tự hào nói.
Dây đờn Rạch Giá ra đời và thịnh hành đến khoảng đầu năm 1960. Các tỉnh lân cận như Cà Mau, Bạc Liêu cũng mê mẩn. Theo các nghệ nhân, dây đờn Rạch Giá tạo được sức hút vì tiếng đàn mùi mẫn, thâm trầm, mộc mạc, giản dị và dễ đi vào lòng người. Trong khi đó, các kiểu ca phù hợp với dây Rạch Giá thường chậm hơn, chữ nhấn nhá, phân tần cung bậc cũng rõ ràng hơn. Đến khoảng năm 1962-1963, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ngày càng ác liệt, ở các buổi văn nghệ trong rừng sâu, tiếng đờn dây Rạch Giá vẫn vang vọng. Mỗi câu ca, mỗi nhịp đàn như tiếp thêm tinh thần cho người dân, chiến sĩ giữa bom đạn rình rập.
Theo thời gian, dây Rạch Giá bộc lộ yếu điểm nhất định cùng với đòi hỏi ngày càng cao của giới tài tử nên dần bị lãng quên. Song, các nghệ nhân khẳng định giá trị của dây Rạch Giá vẫn còn vẹn nguyên, sâu sắc, bởi ngày nay người ta vẫn có thể nghe thấp thoáng những âm điệu của dây Rạch Giá qua các kiểu dây lai, dây hò ba vốn thịnh hành trong các vở cải lương hay ĐCTT.
Khi màn đêm buông xuống, chúng tôi khép lại cuốn sổ, chia tay nghệ nhân ưu Quốc Trạng. Bước chân rời khỏi con hẻm nhỏ, chúng tôi mang theo nhiều kiến thức về ĐCTT và cảm nhận sâu sắc hơn về hồn cốt của văn hóa Nam bộ. ĐCTT như lời ông Trạng, không chỉ là một loại hình nghệ thuật mà còn là một sợi dây vô hình kết nối quá khứ với hiện tại, đưa người nghe trở về với cội nguồn, với những giá trị đã làm nên con người và văn hóa Nam bộ. Giữa dòng chảy hối hả của cuộc sống hiện đại, ĐCTT vẫn ở đó, bền bỉ và dịu dàng, như một lời nhắc nhở mọi sống chậm lại, người lắng lòng và tìm thấy sự bình yên trong những giá trị vĩnh cửu của dân tộc.
“Khi chơi đờn tài tử, người chơi được phép sáng tạo trên cơ sở nhịp, câu, lớp, điệu, hơi để ngẩu hứng sáng tác, nhưng phải đảm bảo sự toàn vẹn bản hòa tấu nhạc tài tử. Chính vì sự khác biệt này mà mỗi lần nghe dù cùng một bài, người nghe vẫn luôn thấy mới lạ và hài hòa”, nghệ nhân ưu tú Quốc Trạng nói. |
(Còn tiếp)
TRUNG HIẾU - TÚ LY - TIỂU ĐIỀN