Mạch sống kinh tế ven đôi bờ Cái Lớn, Cái Bé - Bài 1: “Bản giao hưởng xanh” ven sông

10/06/2025 - 08:56

Tháng 5, chiếc vỏ máy đưa chúng tôi xuôi dòng sông Cái Lớn rồi nhẹ nhàng rẽ vào khúc sông Cái Bé thuộc địa bàn tỉnh Kiên Giang. Hai dòng sông này như đôi tay hiền hậu của người mẹ, ôm ấp xóm làng, mang phù sa bồi đắp những vùng đất màu mỡ, nuôi dưỡng giấc mơ no ấm của bao thế hệ người dân. Ngày nay, đôi bờ Cái Lớn, Cái Bé mạch sống kinh tế đang sôi động, nơi người dân bền bỉ bám đất, bám sông, dựng xây cuộc sống mới. Mỗi nơi chúng tôi dừng chân là một câu chuyện đời, hành trình mưu sinh đầy sáng tạo, thấm đẫm tình yêu quê hương và khát vọng vươn lên mãnh liệt.

Dọc theo những con rạch hiền hòa đổ vào sông Cái Bé, Cái Lớn - đoạn chảy qua xã Bình An, huyện Châu Thành và Vĩnh Phước A, huyện Gò Quao màu xanh bạt ngàn của vườn khóm, hàng cau thẳng tắp, rặng dừa nghiêng bóng soi mình xuống mặt nước tạo nên một bức tranh quê trù phú và yên bình.

Một đoạn sông Cái Bé thuộc địa bàn huyện Châu Thành (Kiên Giang).

CÂY KHÓM “CHỦ LỰC” XỨ CÙ LAO

Đến xã Bình An, chúng tôi bị thu hút tầm nhìn trước bạt ngàn những vườn khóm xanh mướt, xen lẫn những hàng cau cao vút và rặng dừa nghiêng bóng. Sau cơn mưa mùa hè, ông Trác Trí Hùng, ngụ ấp An Thành, xã Bình An đi thăm vườn khóm chuẩn bị thu hoạch. Gương mặt sạm nắng, đôi tay chai sạn, nhưng ánh mắt ông vẫn ánh lên sự chăm chút, tỉ mỉ. Gần 30 năm gắn bó với nghề trồng khóm, người đàn ông 58 tuổi này hiểu rõ đặc tính của loại cây gai góc nhưng cho trái ngọt này. “Đất ở đây đặc biệt thích hợp trồng khóm. Trái khóm Bình An ngọt thanh, thơm hơn hẳn những nơi khác”, ông Hùng vừa nói vừa nhấc trái khóm lên khoe.

Với ông Hùng, cây khóm không chỉ là nguồn thu nhập mà còn là cả một câu chuyện dài, một niềm tự hào gắn liền với bao thăng trầm của cuộc đời. Từ thời còn thanh niên, ông đã theo ba, mẹ ra rẫy cuốc đất trồng khóm. Nhớ lại những năm tháng khó khăn, ông Hùng không khỏi bồi hồi: “Trước đây, có mưa mới trồng khóm phát triển được. Mùa khô, nước mặn từ sông Cái Bé thường xuyên xâm nhập sâu vào nội đồng, khiến bao nhiêu vườn khóm điêu đứng”.

Dù trải qua nhiều khó khăn, tình yêu và sự gắn bó của ông Hùng với cây khóm không hề thay đổi. Sau những vụ khóm thất bại, ông vẫn miệt mài học hỏi kinh nghiệm từ những người đi trước, rồi tự mày mò, tìm hiểu kỹ thuật trồng mới. Từ việc chọn giống, làm đất, bón phân đến chăm sóc khóm, ông đều làm một cách cẩn thận, tỉ mỉ. Đặc biệt, ông Hùng chú trọng bón phân hữu cơ, hạn chế tối đa việc sử dụng phân hóa học để đảm bảo chất lượng và vị ngọt tự nhiên của trái khóm.

Ông Trác Trí Hùng, ngụ ấp An Thành, xã Bình An, Châu Thành (Kiên Giang) hiện trồng xen canh gần 2ha khóm, cau, dừa.

Bước ngoặt lớn trong quá trình trồng khóm của gia đình ông Hùng cũng như bao hộ nông dân khác ở xã Bình An là khi hệ thống thủy Cái Lớn - Cái Bé đi vào lợi hoạt động. Hệ thống thủy lợi này đã mang nước ngọt về cho ruộng rẫy, khơi dậy niềm tin, ý chí vươn lên của người dân. “Có cống rồi, nước mặn không còn xâm nhập sâu nữa. Người dân chủ động được nguồn nước tưới tiêu không còn lo lắng trắng tay mỗi khi mùa khô đến ông”, Hùng phấn khởi nói.

Nhờ có nguồn nước ngọt ổn định, năng suất và chất lượng khóm của gia đình ông Hùng ngày càng nâng cao. Hiện tại, với gần 2ha đất trồng khóm, mỗi năm ông thu hoạch hàng chục tấn khóm. Ông còn tận dụng diện tích đất quanh vườn để trồng thêm cau, dừa, tạo nên một hệ sinh thái “3 tầng cây”, vừa tăng hiệu quả kinh tế, vừa hạn chế rủi ro do không còn tập trung vào một loại cây trồng. Hiện mỗi năm, trừ chi phí, ông thu lợi nhuận khoảng 250 triệu đồng từ trồng 3 loại cây này. Năm nào trúng mùa, trúng giá, lợi nhuận hơn 300 triệu đồng. “Nhờ cây khóm mà tôi nuôi con cái ăn học đàng hoàng, xây được căn nhà kiên cố. Cuộc sống khấm khá hơn so với trước đây nhiều”, ông Hùng khoe.

Không riêng ông Hùng, toàn xã Bình An có hàng trăm hộ sống bằng nghề trồng khóm xen dừa, cau, lợi nhuận từ 200 - 500 triệu đồng/năm. Nhiều thường quen gọi người nơi đây là “vương quốc” khóm, dừa, cau. Trong mô hình kinh tế “3 tầng cây” này, khóm vẫn là cây chủ lực. Hiện tại giá khóm loại 1 ở mức 9.000 đồng/kg, cao hơn năm 2024 là 2.000 đồng. Dừa bán tại vườn giá 11.000 đồng/trái, cao hơn 4 đồng so 4.000 cùng kỳ năm 2024. “Tôi và người dân trồng khóm, cau vụ này trúng giá nên rất vui. Với giá này, tôi kiếm lời gấp hai lần so với trồng lúa”, ông Hùng tươi cười.

Theo Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành, hiện diện tích trồng khóm toàn huyện khoảng 2.000ha, tập trung nhiều ở xã Vĩnh Hòa Phú và xã Bình An - vùng đất cù lao giữa hai sông Cái Lớn, Cái Bé. Khóm trồng trên vùng đất này trứ danh khóm Tắc Cậu, có hương vị ngọt , đặc trưng thanh, giòn, màu vàng đậm. Dưới bàn tay khéo léo cần cù của người nông dân, trái khóm còn chế biến thành nhiều sản phẩm như mứt khóm, kẹo khóm, bánh hoa mai nhân khóm. Một số sản phẩm từ khóm được công nhận đạt chuẩn OCOP.

Một góc khóm, cau, dừa ở ấp An Thành, xã Bình An, huyện Châu Thành.

HIỆU QUẢ MÔ HÌNH “3 TRONG 1”

Rời xã Bình An, chúng tôi tiếp tục hành trình đến xã Vĩnh Phước A, huyện Gò Quao, nơi những những liếp khóm nối liền nhau, thẳng tắp vươn xanh trên những cù lao sông Cái Lớn tạo nên một khung cảnh độc đáo và đầy sức sống. Trong cái nắng chói chang, 3ha khóm của ông Nguyễn Văn Tím, ngụ ấp Phước Lợi, xã Vĩnh Phước A phát triển xanh tốt. Điều đặc biệt ở những liếp khóm này là cách ông Tím “biến hóa” thành một hệ sinh thái đa dạng, hiệu quả kinh tế cao. Bí quyết của ông Tím gói gọn trong câu nói mộc mạc, dễ hiểu: “Liếp cao trồng khóm, mương sâu nuôi tôm, bờ bao trồng lúa”. Những liếp đất cao ráo, thoát nước tốt là “ngôi nhà lý tưởng cho cây khóm phát triển, cho trái ngọt và năng suất cao. Những con mương bao quanh liếp là môi trường sống lý tưởng cho tôm thẻ, tôm sú. Xung quanh liếp khóm, ông Tím tận dụng trồng thêm giống lúa một bụi đỏ, vừa có thêm thu nhập, vừa tạo bóng mát, giữ ẩm cho đất trồng khóm.

Những trái khóm của ông Tím trồng to, đều, được thương lái mua tại vườn với giá từ 10.000 - 12.000 đồng/kg (khóm loại 1, mỗi trái từ 1kg trở lên). Nuôi tôm cũng là một điểm sáng trong mô hình kinh tế “3 trong 1” này. Nhờ nguồn nước được điều tiết ổn định và môi trường sống gần gũi với tự nhiên, tôm nuôi phát triển nhanh, ít dịch bệnh và đạt chất lượng cao. Mỗi vụ tôm kéo dài khoảng 2,5 - 3 tháng, thu hoạch khoảng 300kg, lợi nhuận hơn 42 triệu đồng. Đối với lúa bệ quanh liếp khóm, dù năng suất không cao như lúa chuyên canh, nhưng đây cũng là một nguồn thu nhập thêm. Ông Tím nói: “Tôi cùng người dân liên kết sản xuất, tham gia hợp tác xã nông nghiệp của xã giúp đầu ra nông sản ổn định, tránh bị thương lái ép giá và được ngành chức năng tập huấn khoa học, kỹ thuật áp dụng vào trồng trọt phát triển hơn”.

Nông dân Nguyễn Văn Tím, ngụ ấp Phước Lợi, xã Vĩnh Phước A, huyện Gò Quao (Kiên Giang) thu hoạch tôm dưới mương trong liếp khóm.

Câu chuyện sản xuất thành công mô hình “khóm trên liếp, tôm dưới mương, lúa trên bờ” của ông Tím là nguồn cảm hứng cho nhiều nông trong dân vùng, mở ra một hướng phát triển kinh tế hiệu quả, bền vững trên chính mảnh đất quê hương. Hiện diện tích trồng khóm toàn xã Vĩnh Phước A vượt 2.855ha. Khóm phát triển xanh tốt, năng suất ổn định, giá bán dao động từ 8.500 - 12.000 đồng/trái (từ 1kg trở lên). Bên cạnh đó, 1.700ha tôm được người dân thả nuôi đúng kế hoạch. Năm 2024, thu nhập bình quân đầu người ở xã Vĩnh Phước A hơn 74 triệu đồng/năm.

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Phước A Phạm Quốc Trị cho biết, hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé đảm nhận vai trò giữ nước ngọt, ngăn nước mặn nên sản xuất nông nghiệp toàn xã khởi sắc Trước đây, trồng khóm chỉ đạt năng suất 13 tấn/ha, giờ lên 15 - 16 tấn/ha. Lúa, tôm được người dân sản xuất theo hướng tự nhiên, hoàn toàn không dùng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Sản phẩm sạch, chất lượng cao, an toàn cho sức khỏe nên các nông sản của hợp tác xã đều được chứng nhận đạt tiêu chuẩn OCOP.

Bên cạnh niềm vui, ông Trị cũng bày tỏ những trăn trở về một số khó khăn trong sản xuất nông nghiệp địa phương. Cụ thể, tình trạng khóm bị chết bụi nhiều nhưng vẫn chưa có loại thuốc đặc trị hiệu quả. Trái khóm bị đỏ đầu nên bán với giá thấp, ảnh hưởng đến thu nhập của người trồng. Ngoài ra, người dân còn ít tận dụng phế phẩm như lá và gốc khóm sau thu hoạch để làm phân hữu cơ, gây lãng phí nguồn tài nguyên sẵn có. Trong lĩnh vực nuôi tôm, mặc dù đạt được kết quả tích cực, nhưng năng suất vẫn chưa đồng đều giữa các hộ nuôi.

Những trăn trở này cũng chính là định hướng quan trọng trong thời gian tới để chính quyền và các đoàn thể địa phương cùng người dân phối hợp, tìm giải pháp tháo gỡ, nâng cao hiệu quả sản xuất và phát triển kinh tế bền vững.

Sông Cái Lớn là sông lớn nhất tỉnh Kiên Giang, dài khoảng 165km, bắt nguồn từ xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang) đổ ra vịnh Rạch Giá. Đoạn sông chảy qua Kiên Giang dài khoảng 50km, bề rộng trung bình 200-500m, độ sâu từ 8-12m. Sông có nhiều nhánh và phụ lưu, đóng vai trò cấp thoát nước cho sản xuất nông nghiệp, vừa là tuyến giao thông thủy huyết mạch của vùng Tây sông Hậu và U Minh Thượng.
Sông Cái Bé là sông lớn thứ hai của Kiên Giang, dài khoảng 90km, bắt nguồn từ xã Hòa Hưng (Giồng Riềng) và chảy song song với sông Cái Lớn, cùng đổ ra vịnh Rạch Giá. Sông rộng từ 60-200m, độ sâu trung bình 3-8m, cửa sông rộng khoảng 500m, góp phần dẫn nước ngọt từ sông Hậu về tưới tiêu cho vùng Tây sông Hậu. Mùa mưa, sông đóng vai trò tiêu thoát lũ, chống ngập úng; tuy nhiên mùa khô thường xảy ra hiện tượng xâm nhập mặn do dòng chảy yếu và thủy triều dâng.

(còn tiếp)

TÚ LY - THANH DƯ - TIỂU ĐIỀN