Từng được xem là loài cây mọc hoang dại, dừa nước giờ đây đã trở thành nguồn sống của nhiều hộ dân ven sông. Lá dừa được khai thác để chằm lá lợp nhà, trái dùng làm nước giải khát, mứt. Nhờ sự khéo léo và cần cù, người dân đã biến món quà từ thiên nhiên thành “cần câu cơm” hiệu quả.
-(1).jpg)
Trần Hoàng Nam, ngụ ấp Lô , 3, xã Hưng Yên, huyện An Biên (Kiên Giang) vận chuyển các buồng dừa nước vừa chặt được từ ven sông Cái Lớn, Cái Bé để bán lại cho các tiểu thương.
MỘT THỜI RỘN RÀNG XÓM CHẰM LÁ
Tranh thủ cuối tuần con cháu tập trung đông đủ, bà Nguyễn Kim Xuân, 73 tuổi, xã Hưng Yên, huyện An Biên dạy các cháu từng công đoạn chằm lá dừa nước, hy vọng rằng những thế hệ sau sẽ không quên những giá trị văn hóa tốt đẹp của cha ông. “Theo sự phát triển của xã hội, nghề chằm lá giờ mai một nên tôi dạy con cháu cách chằm lá để giữ lại một chút nét xưa, nhắc nhở về một nghề truyền thống của ông cha”, bà Xuân trải lòng.
Nhắc đến dừa nước, ký ức hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghề chằm lá dừa nước của bà Xuân ùa về. Ngồi bên hiên nhà lợp bằng chính những tấm lá dừa nước do mình chằm, bà Xuân chậm rãi kể, trước đây dừa nước mọc bạt ngàn dọc hai bờ sông, cửa sông, len lỏi vào tận những rạch nhỏ. Khi chưa có mái ngói, mái tole, dừa nước là vật liệu làm nhà phổ biến ở vùng nông thôn nên nghề chằm lá dừa nước hình thành, mang lại nguồn thu nhập ổn định cho nhiều hộ dân ven sông. Cách đây vài thập niên, ở các xã như Hưng Yên, Đông Yên (An Biên), nhiều hộ dân sống bằng nghề chằm lá dừa nước. “Thời điểm đó, hầu như nhà nào cũng chằm lá, buôn bán lá dừa nước lợp nhà. Tôi có hơn 30 năm rong ruổi trên những con rạch, con kênh chở biết bao chuyến ghe đầy ắp lá dừa nước đi bán”, bà Xuân nhớ lại.
Từ nhỏ, bà Xuân bắt đầu tập tành chằm lá dưới sự chỉ dạy của mẹ, đôi bàn tay nhỏ bé dần quen với việc rọc lá, rồi khéo léo ốp lá vào hom, xỏ lạt đều đặn lại thành tấm lá. Những ngày không chằm lá, bà Xuân đi thu mua lá từ những nhà khác trong xóm, chất đầy ghe rồi chạy dọc các kênh, rạch, xuôi ra tận các vùng lân cận để bán. “Hồi đó đường sá đâu có như bây giờ, toàn đi bằng ghe. Có khi đi cả tuần mới bán hết một chuyến lá. Vất vả lắm, nhưng khi bán hết lá, tiền lời cũng khá nên bao nhiêu mệt nhọc tan biến hết”, bà Xuân bồi hồi kể.
Thời gian trôi đi, mái ngói, tole dần thay thế những mái lá dừa nước. Nghề chằm lá cũng theo đó mai một dần. Nhiều người bỏ nghề đi làm ăn xa, những người còn lại dần chuyển sang những công việc khác. Giờ tuổi cao, sức yếu, bà Xuân thỉnh thoảng vẫn chằm lá, không phải mưu sinh mà chỉ để nhắc nhớ về nghề truyền thống của ông cha. Hiện bà Xuân và nhiều hộ ở xã Hưng Yên vẫn còn sử dụng lá dừa nước để lợp mái hiên nhà, cất chuồng trại, chòi canh vuông tôm.
-(1).jpg)
Người dân chẻ trái dừa nước lấy cơm dừa để bán cho khách.
BỎ PHỐ VỀ QUÊ “BÁM RỄ” DỪA NƯỚC
Những năm gần đây, cơm dừa nước giòn mát, ngọt thanh được chế biến thành món giải khát, nhiều người ưa chuộng. Nhờ vậy, người dân sống gần sông Cái Lớn, Cái Bé có thêm sinh kế từ việc chặt buồng dừa đem bán. Từ tháng 4 đến 10 hàng năm, dừa nước vào mùa rộ. Dọc theo hai bên bờ sông Cái Lớn, Cái Bé không khó để bắt gặp hình ảnh những chiếc vỏ máy đi miệt mài, một số người đàn ông với đôi tay thoăn thoắt đang “săn” tìm những buồng dừa nước trĩu trái. Cùng chuyến mưu sinh này, anh Trần Hoàng Nam, ngụ ấp Lô 3, xã Hưng Yên, huyện An Biên đang quan sát kỹ từng buồng dừa. Thấy buồng nào trái tròn, màu nâu bóng, căng mọng, anh chặt ngay. Với anh, những buồng dừa nước là sản vật của dòng sông, là “cần câu cơm” và là hy vọng về một cuộc sống ổn định cho cả gia đình.
Nhớ lại cái duyên với cây dừa nước cách đây hơn 4 năm, anh Nam cho biết gia đình anh không đất canh tác, không vốn liếng lớn. Sau những năm tháng bươn chải làm công nhân ở tỉnh Bình Dương, cuộc sống vẫn bấp bênh nên vợ chồng anh trở về quê, tìm kế sinh nhai trên chính mảnh đất chôn rau cắt rốn. “Về quê, thấy xung quanh có nhiều cây dừa nước, tôi nghĩ bụng sao mình không thử tận dụng “lộc trời” này để bán kiếm thu nhập”, anh Nam kể. Từ đó, cứ cách 2 - 3 ngày, anh Nam rong ruổi khắp các nhánh sông, con rạch dọc theo sông Cái Lớn, Cái Bé để tìm buồng dừa nước. Giọng anh lẫn trong tiếng máy nổ lách tách: “Đi chặt dừa nước cũng cực lắm. Có khi phải chạy vỏ máy tới 40 - 50km mới tìm được những biền lá có dừa ngon”. Mỗi chuyến đi, anh thường chặt khoảng 40 buồng, có khi ít hơn tùy vào mùa và độ “trúng” của từng biền lá. Dừa đem về anh bán cho tiểu thương, quán nước ở An Biên với giá sỉ khoảng 25.000 đồng/buồng, thu nhập trên dưới 1 triệu đồng mỗi chuyến. “Giờ cuộc sống ổn định hơn nhiều so với hồi còn làm công nhân trên Bình Dương. Tôi tự làm chủ được thời gian, lại được ở gần gia đình”, anh Nam cười tươi nói.
.jpg)
Người dân huyện An Biên (Kiên Giang) chuyển các buồng dừa nước vừa chặt được từ sông Cái Lớn, sông Cái Bé lên bờ để bán lại cho các tiểu thương.
Còn với anh Trần Văn Thanh, ngụ ấp Vĩnh Trung, xã Hòa Chánh, huyện U Minh Thượng mỗi ngày bắt đầu từ tờ mờ. Khi sương còn giăng trên những hàng dừa nước, anh Thanh cùng chiếc võ máy bắt đầu hành trình “săn” dừa nước dọc theo sông Cái Lớn, Cái Bé. Anh cẩn thận chọn những buồng dừa vừa tới, không quá non cũng không quá già, đảm bảo chất lượng cơm dừa ngon nhất. “Nghề này phải chịu khó dậy sớm mới kiếm được nhiều. Dừa nước mọc rải rác khắp nơi, tôi phải đi nhiều, xa nhà khoảng 40km tìm kỹ mới có dừa ngon”, anh Thanh chia sẻ.
Việc chặt dừa nước đòi hỏi sự cần mẫn và cả sự khéo léo, kinh nghiệm. Người chặt phải quan sát, nhận diện những buồng dừa đã đến độ thu hoạch, còn phải có kỹ thuật chặt sao cho buồng dừa rơi xuống nước an toàn, không bị dập. Hành trình “gom lộc dòng sông” không hề dễ dàng, họ đối mặt với nhiều khó khăn của thời tiết. Những ngày nắng gắt, hơi nước bốc lên hầm hập, mồ hôi ướt đẫm lưng áo. Những ngày mưa dầm, chiếc vỏ máy chòng chành trên mặt nước dâng cao, tiềm ẩn nhiều hiểm nguy. “Có buồng dừa nằm thấp dễ lấy. Có buồng vướng rễ, phải bơi vô, trèo qua mới chặt được. Có những chỗ vỏ máy luồn không nổi, tôi phải lội bùn, vai vác buồng dừa”, anh Nam kể.
Dù cực nhọc, nhưng những người “thợ săn” dừa nước như anh Nam, anh Thanh vẫn miệt mài với sinh kế cùng khát vọng vươn lên. Anh Thanh cho biết mỗi ngày anh chặt được khoảng 40 buồng dừa nước, bán được hơn 600.000 đồng. Cuộc sống gia đình anh giờ đã ổn định.
LAN TỎA VỊ NGỌT QUÊ HƯƠNG
Dọc quốc lộ 63 đoạn qua cầu Cái Lớn, nối hai huyện Châu Thành và An Biên có nhiều sạp bán cơm dừa nước. Mỗi sạp chỉ vài cái thùng xốp, vài bịch nylon đựng cơm dừa màu trắng ngà, vẫn thu hút nhiều người ghé mua. Món quà quê tưởng chừng giản dị ấy giờ đây đã trở thành nguồn thu nhập đáng kể, góp phần thay đổi cuộc sống của nhiều hộ dân.
Chị Nguyễn Ngọc Muội, 40 tuổi, ngụ ấp Xẻo Rô, xã Hưng Yên, huyện An Biên có gần 5 năm bán cơm dừa. Nụ cười tươi rói, chị Muội chia sẻ: “Mỗi ngày, tôi bán được khoảng 30kg cơm dừa nước, giá 100.000 đồng/kg, lãi 200.000 - 300.000 đồng. Tuy là nghề phụ, nhưng cũng có thêm đồng ra đồng vào, đỡ vất vả hơn nhiều so với đi làm công nhân”. Theo chị Muội, nguồn dừa chủ yếu được thu mua sỉ từ những người chặt dừa dọc bờ sông Cái Lớn, Cái Bé, với giá từ 15.000 - 30.000 đồng/buồng. Cơm dừa sau khi được tách ra cho vào từng bọc nhỏ khoảng 0,5kg rồi ướp lạnh.
Ngoài chị Muội, còn có trên chục hộ khác bán cơm dừa nước. Có người thêm chút nước đường, thêm đá xay mát lạnh, mời khách dừng chân thưởng thức. Chị Trần Hồng Vân (tỉnh Đồng Tháp), khách hàng của chị Muội góp chuyện: “Ghé vô quán uống ly dừa nước ngọt lịm, mát lạnh, hít thở không khí trong lành thấy dễ chịu hẳn. Qua những lời trò chuyện, tôi có dịp tìm hiểu thêm những đặc sản của Kiên Giang cũng như tính cách, tập quán của người xứ biển này, rất hay”. Cái hay mà người khách phương xa này cảm nhận chính là vẻ đẹp của cảnh vật, con người cùng sản vật của vùng đất cù lao nằm giữa đôi bờ hai con sông lớn nhất và nhì tỉnh Kiên Giang.
(Còn tiếp)
TÚ LY - THANH DƯ - TIỂU ĐIỀN