Mạch sống kinh tế ven đôi bờ Cái Lớn, Cái Bé - Bài 4: Bám lấy con nước mưu sinh

13/06/2025 - 08:55

Sông Cái Lớn chảy hiền hòa đã chứng kiến nhiều cuộc mưu sinh nhọc nhằn của người dân Kiên Giang bao đời nay. Trong dòng chảy ấy, nghề đóng đáy một - phương thức khai thác thủy sản đã tồn tại hàng trăm năm, hiện vẫn còn những người lặng lẽ bám víu. Dẫu biết đến lệnh cấm, nhưng gánh nặng mưu sinh và sự thiếu vắng một hướng đi mới đã trói buộc họ với dòng sông, với cái nghề dù biết là sai.

Ông Nguyễn Bé Hai, ngụ ấp Ngã Bát, xã Tây Yên A, huyện An Biên (Kiên Giang) chuẩn bị lưới để giăng ra ở những hàng cọc đáy, bắt cá, tôm.

“RỪNG” CỌC GIỜ CÒN LƯA THƯA

Trời vừa hửng sáng, ông Nguyễn Bé Hai 70 , ngụ ấp tuổi Ngã Bát, xã Tây Yên A, huyện An Biên lom khom, cặm cụi dựng từng cây tràm dài xuống lòng sông. Trên chiếc vỏ máy nhỏ, vợ ông lặng lẽ vo tròn những mớ lưới cũ, chờ con nước ròng buổi chiều để giăng ra. “Cây nào lỏng tay là nước đánh trôi liền, tiếc lắm!”, ông Hai nói. Với ông, từng cây cọc, từng tấm lưới không chỉ là tài sản mà còn là cuộc sống, là gần cả cuộc đời gắn bó.

Cuộc đời ông Hai như một khúc sông Cái Lớn lặng lẽ trôi, đầy những thăng trầm và gắn chặt với con nước. Sinh ra và lớn lên bên dòng sông này, tuổi thơ của ông gắn liền với những buổi theo cha đi thả lưới, đóng đáy. Cái nghề lấy lộc trời cho ấy đã thấm vào máu thịt ông từ lúc nào không hay. Những năm tháng tuổi trẻ của ông Hai là những đêm thức trắng canh đáy, là những buổi sớm tinh mơ kéo lưới nặng trĩu cá, tôm. Con sông không chỉ là nơi mưu sinh mà còn như người bạn, người nuôi dưỡng cả gia đình ông qua bao khó khăn. Giọng khàn đặc vì gió sông, ông Hai kể về nghề, về cuộc đời: “Gia đình tôi có 3 đời làm nghề đóng đáy, từ đời ông nội tới cha tôi, rồi tới tôi. “Lúc còn khỏe, tôi ra tận cửa sông Cái Lớn dựng đáy. Giờ yếu rồi, chỉ dựng được ở đoạn sông gần nhà”.

Ánh mắt đau đáu nhìn về phía những hàng cọc, ông Hai giải thích đóng đáy là những hàng cọc gỗ, chủ yếu cây tràm được người dân cắm thẳng xuống lòng sông. Mỗi cọc này cách nhau chừng 3 - 5m, tùy kích cỡ hàng đáy. Ở giữa khoảng cách đó, người dân căng những tấm lưới rộng, có thiết kế túi lưới thuận theo chiều nước để cho cá, tôm đi qua thì chui vào. Không như ngoài biển, đáy ở ven sông ít cá, tôm hơn do diện tích mặt nước hẹp, lại không được chắn ngang con nước vì phải dành cho các phương tiện đường thủy lưu thông. Nghe thì đơn giản, nhưng để dựng được một miệng đáy vững chãi cũng tốn khá nhiều chi phí và bao nhiêu công sức. “Không như nghề lưới hay nghề câu, người ta còn được chạy xuồng đi kiếm cá, chớ nghề này chỉ có ngồi chờ vào con nước “hên xui”. Mỗi lần nước ròng, tôi ra gỡ đáy, bắt cá, tôm. Không có ngày nào là không trông nước”, ông Hai cười buồn, nụ cười khắc khổ của người đàn ông cả đời lênh đênh trên sông nước.

Cách nhà ông Hai không xa, ông Cái Văn Nghĩa, cùng ngụ ấp Ngã Bát lặng lẽ giữ cũng nghề đóng đáy suốt 20 năm qua. Chỉ tay về dãy cọc nhô ra giữa dòng nước mênh mông, ông Nghĩa kể: “Hồi trước, chỉ tính khu vực từ cửa sông Cái Lớn cho tới Xếp Ba Tàu, xã Vĩnh Phước A, huyện Gò Quao có hàng chục cọc đáy cá, dài ngắn đủ kiểu. Mỗi lần gỡ đáy là cá tôm đầy ghe, nặng trĩu cả túi”. Đó là những năm tháng còn thủy sản dồi dào, người làm nghề đóng đáy tuy vất vả nhưng phấn khởi. Có người dựng cả chòi canh giữa sông, sống cùng con nước, bám trụ với đáy ngày đêm để giữ thành quả lao động.

Người dân đăng đáy trên sông Cái Lớn, đoạn thuộc huyện An Biên.

VI PHẠM PHÁP LUẬT

Do nguy cơ ảnh hưởng từ giao thông đường thủy và khai thác có tính hủy diệt, nghề đóng đáy cá bị cấm khai thác tại vùng ven bờ, vùng nội địa theo quy định tại khoản 2, Điều 13, Thông tư số 19/2018/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), được thay thế tại khoản 7, Điều 1, Thông tư số 01/2022/TT-BNNPTNT.  Mấy năm gần đây, các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương tăng cường tuần tra, tuyên truyền, vận động người dân làm nghề đóng đáy ở sông Cái Lớn chuyển đổi nghề. Từ đó, nhiều hộ đã chuyển đổi nghề khác. Thế nhưng vẫn còn một số hộ còn vẫn bám đáy cá. Vừa thu hoạch được ít mớ cá từ miệng đáy bán chỉ đủ trang trải sinh hoạt trong ngày, ông Cái Văn Nghĩa trăn trở, nỗi lo lắng hằn rõ trên khuôn mặt: “Tôi nghèo, vẫn cố níu con nước để kiếm sống. Dẫu biết là sai nhưng bỏ thì không biết làm gì khác”.

Hiện còn sở hữu 2 miệng đáy trên sông Cái Lớn, ông Nguyễn Bé Hai cho biết mỗi ngày ông bắt được 5 - 10kg cá, bán chỉ đủ trang trải sinh hoạt. Giờ tuổi cao, ông không làm nghề gì khác được, trong khi gia đình có tới 4 miệng ăn, ông lại là lao động chính. Hai con của ông có một người bị tai nạn giao thông không còn minh mẫn, người còn lại chỉ phụ giúp trong nhà. Với ông, cái đáy cá không chỉ là “cần câu cơm” mà còn là kỷ niệm về cha ông, của ký ức về những tháng ngày sung túc của dòng sông. Nó là một phần cuộc đời, một thói quen đã ăn sâu vào tiềm thức. Vì thế, ông vẫn chưa thể dứt bỏ được.

Không riêng gì ông Nghĩa, ông Hai, hàng chục hộ dân làm nghề đóng đáy ven sông Cái Lớn cũng đang sống trong cảnh làm cái nghề biết là sai, nhưng không bỏ được. Họ mong muốn được chuyển nghề, được hỗ trợ để có sinh kế ổn định hơn. Nhưng khi chưa có lối ra nào rõ ràng, đáy cá vẫn là lựa chọn cuối cùng của những phận đời không còn gì để chọn. Trong nghịch cảnh ấy, người dân sống giữa lằn ranh của sự tồn tại và quy định pháp luật. Họ không phản đối luật pháp nhưng cũng chưa có đủ điều kiện để thực hiện một cuộc chuyển đổi sinh kế đúng nghĩa. Cùng nhiều nỗi lo và trăn trở, ông Nguyễn Văn Việt, ngụ ấp Ngã Bát, xã Tây Yên A trải lòng: “Tôi biết nghề đáy cấm khai thác. Nhưng hiện tại chưa có lối ra. Nhà nghèo quá, vợ chồng tôi phải nuôi hai đứa nhỏ. Nếu được Nhà nước hỗ trợ, chắc tôi cũng bỏ mà đi làm nghề khác”.

Tại huyện Châu Thành, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Nguyễn Hồng Đại cho biết trên sông Cái Lớn thuộc ấp An Thành, xã Bình An hiện còn khoảng 10 hộ dân làm nghề đóng đáy. Hoàn cảnh những hộ này đều khó khăn, Để làm một cái đáy ngang 12m, dài 32m, phải tốn khoảng 35 triệu đồng. Bình quân một hộ làm khoảng 3 miếng đáy. Những hộ này đều đã đầu tư vốn nên đóng đáy không còn vốn để làm nghề khác. “Qua trao đổi, các hộ cũng hiểu nghề đóng đáy không giờ được phép khai và đồng thác tình cùng địa phương sẽ hứa tháo dỡ hoàn toàn, đồng thời mong được địa phương muốn hỗ trợ kinh phí để có điều kiện chuyển làm nghề khác”, ông Đại nói.

HỖ TRỢ NGƯỜI DÂN CHUYỂN ĐỔI NGHỀ

Phần lớn những còn duy hộ trì nghề đóng đáy nhỏ lẻ trên sông Cái Lớn nghèo, là hộ người cao tuổi, không còn sức lao động nặng, không có điều kiện học nghề mới. Theo Phó trưởng Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện An Biên Lê Văn Liền, thời gian tới huyện tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân nhận thức rõ tác hại của nghề đáy cá đối với môi trường sinh thái và nguồn lợi thủy sản, từ đó tự giác chấm dứt hành nghề này. “Huyện sẽ phối hợp các cơ sở đào tạo nghề tổ chức các lớp đào tạo nghề mới phù hợp với nhu cầu thị trường lao động, giúp người dân học hỏi và chuyển đổi nghề nghiệp. Đồng thời hỗ trợ người dân tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi từ ngân hàng chính sách xã hội và các quỹ hỗ trợ khác để đầu tư vào các nghề mới như nuôi trồng thủy sản, chế biến thủy sản, du lịch sinh thái”, ông Liền nói.

Chuyển đổi nghề nghiệp cho người làm nghề đáy cá là điều cần thiết để giải quyết được bài toán vừa đảm bảo an toàn giao thông, vừa đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân. Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Kiên Giang Lê Hữu Toàn cho biết ngành nông nghiệp sẽ tiếp tục phối hợp, hỗ trợ các địa phương vận động ngư dân làm nghề đóng đáy chuyển đổi sang nghề khác. Thời gian tới khi thực hiện đề án chuyển đổi nghề cho ngư dân có tàu cá bị cắt giảm và ngư dân có tàu cá bị chuyển đổi nghề phù hợp với nghề mới trên địa bàn tỉnh và nghị quyết về chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Kiên Giang sẽ xem xét các nhóm nghề trong và ngoài lĩnh vực khai thác thuỷ sản được chuyển đổi hiệu quả và đối tượng ngư dân khai thác thủy sản cần phải chuyển đổi nghề.

Sông Cái Lớn vẫn chảy, nước lớn nước ròng vẫn đến hẹn lại lên. Vòng quay mưu sinh của những người dân nơi đây dường như chẳng bao giờ ngơi nghỉ. Mong rằng, trên dòng chảy cuộc đời sẽ có những “con nước” mới, mang đến những cơ hội, sinh kế bền vững hơn cho những phận người “níu” lấy dòng sông hôm nay. Để giải bài toán này cần đi kèm các chính sách cụ thể, nguồn lực đủ mạnh và sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, ngành. Có như vậy, những con người lam lũ nơi cửa sông mới yên tâm rời bỏ cây cọc, tấm lưới để bắt đầu một cuộc sống mới vững chãi hơn.

(Còn tiếp)

TÚ LY - THANH DƯ - TIỂU ĐIỀN