Thích ứng tốt để vượt khó thành công

16/01/2024 - 14:09

Theo báo cáo của ngành nông nghiệp các tỉnh nuôi tôm trọng điểm khu vực đồng bằng sông Cửu Long, sản lượng tôm năm nay đều tăng so với cùng kỳ. Riêng Sóc Trăng, tuy diện tích thả nuôi giảm gần 2%, nhưng sản lượng lại tăng gần 7,5% so với cùng kỳ. Còn trên bình diện chung của cả nước, Cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cũng cho biết, sản lượng tôm dự kiến trên 1,1 triệu tấn, tăng 5,9% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, ngành tôm vẫn chưa thể vui khi mà tỷ lệ nuôi thành công vẫn thấp, giá thành vẫn còn cao, doanh nghiệp và người nuôi tôm vẫn chưa hết khó.

Đánh giá về những khó khăn của vụ tôm nước lợ năm 2023, Chi cục Thủy sản Sóc Trăng cho biết, độ mặn năm 2023 nhìn chung, thấp hơn nhiều so với năm 2022 và hiện tượng mưa bão, triều cường cũng tăng đáng kể so với trung bình nhiều năm. Là một trong những yếu tố gây khó khăn cho vụ nuôi tôm nước lợ. Những diễn biến bất thường của thời tiết, cùng với môi trường và chất lượng nước phục vụ nuôi trồng thủy sản chưa đảm bảo, không những ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe tôm nuôi và cơ cấu thời vụ của địa phương, mà còn làm tăng thêm chi phí xử lý môi trường, dịch bệnh, từ đó làm tăng giá thành sản xuất. Trong khi đó, giá tôm nguyên liệu trong năm liên tục giảm, còn chi phí vật tư đầu vào cao, nên một số hộ nuôi không có hiệu quả, thậm chí thua lỗ.

Nhờ thay đổi sang mô hình ao đáy lưới, bạt bờ, 2 năm nay, anh Đỗ Minh Kha ở xã Hòa Tú 2, huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) đã có không ít vụ nuôi tôm thành công. Ảnh: TÍCH CHU

Không chỉ có Sóc Trăng, theo báo cáo của Cục Thủy sản, vụ tôm nước lợ năm 2023 của nhiều địa phương cũng gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù sản lượng tôm cả nước vẫn tăng 5,9% nhưng tỷ lệ hộ nuôi có lời là không cao, mà nguyên nhân chủ yếu là do giá tôm xuống thấp, kéo dài gần như xuyên suốt vụ nuôi. Vụ tôm nước lợ năm 2023 đã khép lại nhưng theo dự báo, những khó khăn từ vụ nuôi này sẽ còn tiếp tục kéo dài đến hết quý II/2024. Trong bối cảnh cạnh tranh và biến đổi khí hậu ngày càng khó lường thì khó khăn, thách thức đối với ngành tôm là điều không thể tránh khỏi. Do đó, nếu nghề nuôi không có sự thay đổi để thích ứng tốt với tình hình mới thì khó khăn của ngành tôm sẽ càng thêm chồng chất ở vụ tôm năm 2024.

Trong các cuộc hội thảo, hội nghị gần đây, Cục trưởng Cục Thủy sản Trần Đình Luân đã liên tục cảnh báo về những khó khăn của ngành tôm trong vụ nuôi năm 2024 và đề nghị các địa phương cần làm ngay công tác tổ chức lại sản xuất để hạn chế tình trạng nhỏ lẻ nhằm tăng kết nối hơn giữa người nuôi với các nhà cung cấp giống, thức ăn, hoặc chuyển giao kỹ thuật, chế biến xuất khẩu… để làm sao đảm bảo người nuôi tiếp cận tốt hơn với các nguồn cung cấp đầu vào, khoa học công nghệ và thông tin thị trường. Còn theo ông Hồ Quốc Lực - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta, việc thích ứng với khó khăn đến từ khách quan hay chủ quan ngày càng trở nên thường xuyên hơn đối với các bên trong chuỗi giá trị ngành hàng tôm. Và thực tế cũng đã cho thấy, thời gian qua, ngành tôm đã có sự thay đổi đáng kể để thích ứng với những khó khăn, thách thức ngày càng đa dạng hơn.

Có thể thấy, qua những lần vượt khó, ngành tôm đều có sự thay đổi để ngày một thích ứng tốt hơn, hiệu quả hơn. Những tuyên bố đầy tự tin của ông Võ Văn Phục - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Thủy sản sạch Việt Nam (Vinacleanfood) hay ông Lê Văn Quang - Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú rằng, ngành tôm Việt Nam không sợ cạnh tranh với tôm các nước nếu chúng ta có con giống đảm bảo chất lượng, có đủ nước sạch và mô hình nuôi phù hợp. Đây đều là những người đứng đầu doanh nghiệp tôm thuộc hàng tầm cỡ trong nước, nên chắc chắn họ không hề nói suông, mà tất cả đều dựa trên kết quả thực tế từ trại nuôi của mình. Đó là kết quả nuôi với tỷ lệ thành công ở vụ thuận của Vinacleanfood trên 90%, cao nhất đến 98%, còn vụ nghịch, hiện cũng có tỷ lệ thành công trong năm 2023 là khá cao, giá thành đủ sức cạnh tranh với tôm các nước. Đó còn là mô hình MPBio 124 của Minh Phú, đã thử nghiệm thành công trên diện tích lớn tại nhiều vùng nuôi khác nhau, có thể nuôi tôm đạt kích cỡ 30 con/kg với giá thành chỉ khoảng 80.000 đồng/kg, tức tương đương với giá thành của Ecuador.

Mấy năm gần đây, bên cạnh sự phát triển của mô hình nuôi tôm thẻ lót bạt đáy còn có sự trở lại của mô hình đáy lưới, bạt bờ. Đây được xem là sự thay đổi khá ấn tượng của những người nuôi tôm quy mô nhỏ, không đủ điều kiện để nâng cấp lên ao lót bạt. Với chi phí đầu tư chỉ bằng 20 - 30% so với mô hình ao bạt đáy, mô hình đáy lưới, bạt bờ không chỉ mang đến tín hiệu tích cực cho nghề nuôi tôm nước lợ mà còn mang đến những cải tiến mới theo hướng hiệu quả và giảm giá thành hơn. Cũng từ mô hình này mà 2 năm nay, anh Đỗ Minh Kha ở xã Hòa Tú 2, huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) đã có được không ít thành công. Không nói đâu xa, ngay đợt thu hoạch đầu tháng 1 mới đây, sau 120 ngày nuôi anh thu tôm đạt kích cỡ 22 - 23 con/kg nhưng giá thành chỉ vào khoảng 85.000 đồng/kg. Qua tiếp xúc với những hộ nuôi mô hình này, tất cả đều cho biết, cải tiến đáng kể của mô hình là thiết kế ao nuôi lớn hơn 2.000 - 3.000m2/ao, sâu hơn 2,5 - 3m, nên có thể thả nuôi mật độ cao hơn và chỉ sử dụng hoàn toàn chế phẩm sinh học, cùng quạt tạo ôxy là chính và hầu như không thay nước, nên chi phí vụ nuôi là khá thấp.

Chúng ta đã và đang có những mô hình nuôi tôm thích ứng khá tốt với tình hình mới, nên vấn đề còn lại là người nuôi cần chọn lựa cho mình mô hình nuôi phù hợp, bởi không có mô hình nào là hoàn thiện cho tất cả, như cách nói của ông Hồ Quốc Lực: “Người nuôi cần quan tâm đến chuyện ăn chắc, mặc bền, “liệu cơm, gắp mắm” để chọn lựa được mô hình nuôi hiệu quả trong phạm vi khả năng tài chính và kỹ thuật của mình”.

Theo TÍCH CHU (Báo Sóc Trăng)